Dịch thuật: Một số tiết nhật chủ yếu trong năm (tiếp theo)



MỘT SỐ TIẾT NHẬT CHỦ YẾU TRONG NĂM
(tiếp theo)

11- Phục nhật 伏日: ngày Canh thứ 3 sau Hạ chí gọi là Sơ phục 初伏, ngày Canh thứ 4 gọi là Trung phục 中伏, ngày Canh thứ nhất sau Lập thu 立秋 gọi là Chung phục 终伏 (Mạt phục 末伏), gọi chung là Tam phục 三伏. Theo truyền thuyết, “phục” ý nghĩa là ẩn nấp tránh nắng nóng (1). Phục nhật có tế tự, cho nên cũng là một lễ tiết lớn. Nói chung gọi là Phục nhật đại khái chỉ Sơ phục. Dương Uẩn 杨恽trong Báo Tôn Hội Tông thư 报孙会宗书 có ghi:
Điền gia tác khổ, tuế thời Phục Lạp, phanh dương bào cao,  đấu tửu tự lao
田家作苦, 岁时伏腊, 烹羊炰羔, 斗酒自劳.
          (Cày cấy vất vả khổ nhọc cho nhà người ta, gặp lúc cúng tế ngày Phục ngày Lạp trong năm, thì cũng nấu dê lớn dê nhỏ, châm một bình rượu để tự uý lạo mình.)
12- Thất tịch 七夕: ngày mồng 7 tháng 7. Trong Kinh Sở tuế thời kí 荆楚岁时记 nói rằng, đêm mồng 7 tháng 7 là là đêm Khiên Ngưu 牵牛 Chức Nữ 织女 gặp nhau, phụ nữ các nhà kết dây màu, xỏ “thất khổng châm”, bày rượu thịt hoa quả giữa sân để xin được khéo tay. Đỗ Mục 杜牧 trong bài thơ Thất tịch 七夕có viết:
Ngân chúc thu quang lãnh hoạ bình
Khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh
Thiên nhai dạ sắc lương như thuỷ
Ngoạ khán Khiên Ngưu Chức Nữ tinh
银烛秋光冷画屏
轻罗小扇扑流萤
天街夜色凉如水
卧看牵牛织女星
(Ánh trăng đêm thu như ánh đuốc, chiếu ánh sáng lạnh lên bức bình phong
Tay cầm chiếc quạt lụa, nhẹ xua bầy đom đóm
Nơi bậc thềm kia, đêm khuya đã trở lạnh
Nằm ngắm sao Khiên Ngưu sao Chức Nữ trên trời)
13- Trung nguyên 中元: ngày rằm tháng 7 (2). Theo truyền thuyết Phật giáo, mẫu thân của Mục Liên 目连bị đoạ vào đường ngạ quỷ, thức ăn tới miệng liền hoá thành lửa. Mục Liên cầu cứu Phật, Phật thuyết cho Mục Liên nghe kinh Vu Lan Bồn 于兰盆 , bảo Mục Liên vào ngày rằm tháng 7 làm Vu Lan Bồn để cứu mẫu thân (3), đời sau xem Trung nguyên thành Quỷ tiết 鬼节, có hành vi mê tín bố thí cho ngạ quỷ.
14- Trung thu 中秋: ngày rằm tháng 8. Mọi người cho rằng trăng vào lúc đó là sáng nhất, cho nên là giai tiết để thưởng trăng. Tô Thức 苏轼 trong bài từ Trung thu tác 中秋作  theo điệu Thuỷ điệu ca đầu 水调歌头 viết rằng:
Minh nguyệt kỉ thời hữu
 Bả tửu vấn thanh thiên
明月几时有
把酒问青天
(Trăng sáng khi nào có
Bưng rượu hỏi trời xanh)
15- Trùng dương 重阳 (Trùng cửu 重九, Cửu nhật 九日): ngày mổng 9 tháng 9. Người xưa cho rằng “cửu” là số dương, ngày và tháng đều là số 9, cho nên gọi là Trùng dương. Vào ngày này, người xưa có tập tục lên cao uống rượu. Theo ghi chép trong Tục Tề hài kí 续齐谐记, Phí Trường Phòng 费长房nói với Nhữ Nam Hoàn Cảnh 汝南桓景rằng, ngày mồng 9 tháng 9 Nhữ Nam có tai nạn lớn, mang túi đựng cây thù du lên núi uống rượu hoa cúc thì có thể tránh khỏi, mọi người cho rằng đó là nguồn gốc ngày Trùng Dương lên cao, nhưng không nhất định đáng tin (4). Vương Duy 王维trong bài thơ Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ 九月九日忆山东兄弟 có viết:
Dao tri huynh đệ đăng cao xứ
Biến sáp thù du thiểu nhất nhân
遥知兄弟登高处
遍插茱萸少一人
Biết các huynh đệ từ nơi quê nhà xa xôi đã lên cao
Ai cũng trên đầu cài cành thù du, nhưng thiếu một người
16- Đông chí 冬至: chính là Đông chí tiết冬至节. Trước Đông chí 1 ngày gọi là Tiểu chí小至. Người xưa xem Đông chí là khởi điểm của tiết khí (5), từ Đông chí trở đi, mỗi ngày dài ra một chút, gọi là “Đông chí nhất dương sinh” 冬至一阳生 (6). Người xưa cũng cho rằng: mùa đông đến, mùa xuân cũng theo đến. Đỗ Phủ 杜甫 trong bài Tiểu chí 小至 có viết:
Đông chí dương sinh xuân hựu lai
冬至阳生春又来
(Đông chí dương sinh, mùa xuân lại đến)
17- Lạp nhật 腊日: “Lạp” là tên một lễ tế. Trong Thuyết văn 说文 ghi rằng:
Đông chí hậu tam Tuất Lạp tế bách thần.
冬至后三戌腊祭百神
(Sau Đông chí, ngày Tuất thứ 3 tế Lạp cúng bách thần)
          Nhưng trong Kinh Sở tuế thời kí 荆楚岁时记  lấy ngày mồng 8 tháng 12 làm Lạp nhật, đồng thời có nói người trong thôn đánh trống nhỏ, làm tượng Kim Cang lực sĩ 金刚力士để đuổi ôn dịch. Ngày mồng 8 tháng 12, nói chung mọi người giải thích là phong tục mà đến hiện nay còn có “Lạp bát chúc” (cháo Lạp bát). Đỗ Phủ 杜甫 trong bài thơ Lạp nhật 腊日 viết rằng:
Lạp nhật thường niên noãn thượng dao
Kim niên Lạp nhật đống toàn tiêu.
腊日常年暖尚遥
今年腊日冻全消
(Thường mọi năm đến Lạp nhật khí trời còn rét, cái ấm hãy còn cách rất xa
Nhưng Lạp nhật năm nay khí trời đã ôn hoà, cái rét hoàn toàn tiêu mất)
          Và trong bài Vịnh hoài cổ tích 咏怀古迹 (kì tứ):
Tuế thời Phục Lạp tẩu thôn ông
岁时伏腊走村翁
(Hàng năm đến ngày tế Phục tế Lạp, thôn ông chạy đến tế)
18- Trừ tịch 除夕: buổi tối ngày cuối cùng của một năm. “Trừ” có nghĩa là trừ bỏ cái cũ đón cái mới. Ngày cuối cùng của một năm gọi là “tuế trừ” 岁除, cho nên tối hôm đó gọi là “Trừ tịch”. Tô Thức 苏轼 trong bài Thủ tuế 守岁 viết rằng:
Nhi đồng cưỡng bất thuỵ
 Tương thủ dạ huyên hoa.
儿童强不睡
相守夜喧哗
(Bọn trẻ gắng không ngủ
Cùng nhau cười nói suốt đêm)
          Những tiết nhật nói trên không phải là của một thời đại, mà là từ nhiều thời đại tích luỹ mà ra. (hết)

Chú của nguyên tác
1- Ở đây theo Sử kí – Tần bản kỉ 史记 - 秦本纪:
Nhị niên Sơ phục
二年初伏
          Trương Thủ Tiết张守节 chính nghĩa.
2- Rằm tháng Giêng là Thượng nguyên, rằm tháng 7 là Trung nguyên, rằm tháng 10 là Hạ nguyên. Đời sau chỉ có Thượng nguyên và Trung nguyên trở thành tiết nhật.
3- Vu Lan Bồn 盂兰盆, Phạn ngữ, ý nghĩa là treo ngược. Làm Vu Lan Bồn tức chỉ việc bố thí Phật và tăng, để báo đáp ơn dưỡng dục của cha mẹ.
4- Trong Phong thổ kí 风土记 cho rằng ngày đó bẻ cành thù du cài trên đầu để tránh tà khí, và chế ngự cái lạnh mới có, không tương đồng với ở đây.
5- Sử kí – Luật thư 史记  - 律书 có ghi:
Khí thuỷ vu Đông chí, chu nhi phục thuỷ.
气始于冬至周而复始
(Khí khởi đầu từ Đông chí, giáp vòng rồi quay lại)
6- Sử kí – Luật thư 史记  - 律书 có ghi:
Nhật Đông chí, tắc nhất âm há tàng, nhất dương thướng thư
日冬至, 则一阴下藏, 一阳上舒
(Đến Đông chí, thì một âm lui ẩn, một dương tiến lên)

                                                           Huỳnh Chương Hưng
                                                           Quy Nhơn 03/7/2019

Nguồn
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VĂN HOÁ THƯỜNG THỨC
中国古代文化常识
Chủ biên: Vương Lực 王力
Bắc Kinh: Trung Quốc Nhân dân Đại học xuất bản xã, 2012
Previous Post Next Post