Dịch thuật: Nguồn gốc họ Điền (Bách gia tính)

NGUỒN GỐC HỌ ĐIỀN

          Nguồn gốc họ Điền chủ yếu xuất phát từ tính Quy , con cháu đời sau của Quy Mãn 妫满, từ họ Trần đổi sang.
          Tương truyền trước khi Đế Thuấn 帝舜làm thiên tử, Đế Nghiêu 帝尧đã gả 2 người con gái cho Đế Thuấn, để họ cư trú tại bên Nhuế hà 汭河, trong số con cháu của họ, có người ở lại vùng Nhuế hà mang tính Quy. Sau khi Chu Vũ Vương 周武王diệt nhà Thương, kiến lập triều Chu, bèn truy phong con cháu của thánh vương đời trước, tìm được Quy Mãn là hậu duệ của Đế Thuấn. Vũ Vương phong Quy Mãn là Trần Hầu 陈侯, sử xưng là Hồ Công Mãn 胡公满, Trần Hồ Công 陈胡公. Thời Xuân Thu, em của Trần Hoàn Công 陈桓公sau khi Trần Hoàn Công chết đã giết thái tử Miễn , tự lập làm Trần quân. Hai người em của thái tử Miễn muốn báo thù cho anh, bèn nhân lúc Trần Lệ Công 陈厉公đi sang nước Sái đã giết ông ta. Về sau, con của Trần Lệ Công là Trần Hoàn 陈完 (cháu đời thứ 10 của Quy Mãn) nhân cung đình nội loạn đã chạy sang nước Tề. Tề Hoàn Công 齐桓公bèn phong cho ông ta ở đất Điền . Trần Hoàn không muốn lấy tên nước vốn có của mình làm họ nên đã đổi sang họ Điền. Truyền đến Điền Hoà 田和 khi nhậm chức Tướng nước Tề, đã đuổi Tề Khang Công 齐康公ra đến biển, tự mình lập làm quân, thế là nước Tề Khương tính trở thành nước Tề Điền thị 田氏. Đây chính là “Điền thị đại Tề” 田氏代齐nổi tiếng trong lịch sử.
          Họ Điền ước chiếm 0,38% nhân khẩu của dân tộc Hán trong cả nước, chiếm vị trí thứ 58. Các tỉnh như Hà Nam 河南, Tứ Xuyên 四川, Sơn Đông 山东, Hà bắc 河北có nhiều người họ Điền.

Danh nhân các đời
          Điền Quang 田光, hiệp sĩ nổi tiếng của nước Yên, từng tiến cử Kinh Kha 荆轲cho thái tử Đan để mưu tính giết Tần Vương Chính 秦王政. Điền Văn 田文, đại thần nước Tề  thời Chiến Quốc, ông lấy lễ đãi kẻ sĩ, môn khách có đến 3000 người, hiệu là “Mạnh Thường Quân” 孟尝君, là một trong 4 vị  quân tử thời Chiến Quốc. Thời Chiến Quốc có danh tướng Điền Kị 田忌, Tướng quốc Điền Anh 田婴, Đại tướng Điền Đan 田单 - người dùng chiến thuật hoả công sớm nhất Trung Quốc. Điền Hoành 田横, quý tộc nước Tề, cuối đời Tần cùng với anh khởi binh, trùng kiến lại nước Tề, trong chiến tranh Sở Hán, tự lập làm Tề Vương, binh bại đào vong ra đảo ngoài biển, do vì không muốn xưng thần với nhà Hán nên tự sát, đảo này về sau gọi là Điền Hoành đảo” 田横岛.

Chú của người dịch
Trần Lệ Công 陈厉公 (? – năm 700 trước công nguyên): hậu duệ của Đế Thuấn, vốn tên Quy Dược 妫跃, là con thứ của Trần Hoàn Công 陈桓公. Tại vị từ năm 706 trước công nguyên đến năm 700 trước công nguyên.
          Lúc Trần Hoàn Công Quy Bảo 妫鲍bệnh nặng, người em khác mẹ là Trần Đà 陈佗câu kết với người nước Sái giết thái tử Miễn (Quy Miễn 妫免). Sau khi Trần Hoàn Công qua đời, Trần Đà đã tự lập làm quốc quân nước Trần (Sử kí nhầm là Lệ Công 厉公, còn viết là Lợi Công 利公). Trần Đà hoang dâm ham săn bắn, có một dạo tại nước Sái dâm lạc, bị người con thứ của Trần Hoàn Công là Quy Dược 妫跃, người con thứ 3 là Quy Lâm 妫林, người con thứ 4 là Quy Chử Cữu 妫杵臼biết được, bèn lập kế giết Trần Đà. Sau đó Quy Dược tức vị, đó là Trần Lệ Công 陈厉公. Theo Xuân Thu 春秋, Trần Lệ Công tức vị năm 706 trước công nguyên, qua đời năm 700 trước công nguyên, tại vị được 7 năm. Sau khi ông qua đời, Quy Lâm 妫林tức vị, đó là Trần Trang Công 陈庄公.
          Theo https://baike.baidu.com/item...

                                                         Huỳnh Chương Hưng
                                                         Quy Nhơn 28/10/2018

Nguyên tác Trung văn
 ĐIỀN TÍNH UYÊN NGUYÊN
田姓渊源
Trong quyển
BÁCH GIA TÍNH
百家姓
Biên soạn: Triệu Dương 赵阳
Cát Lâm Đại học xuất bản xã, 2005 
Previous Post Next Post