Dịch thuật: Chữ "nghi" và chữ "dung" trong Hán ngữ cổ

CHỮ “NGHI” VÀ CHỮ “DUNG” TRONG HÁN NGỮ CỔ

NGHI
          Những chuẩn tắc về các động tác ở ăn uống đi đứng tới lui, đặc chỉ nghi thức hành lễ.
          Trong Tả truyện – Chiêu Công nhị thập ngũ niên 左傳 - 昭公二十五年có ghi:
          Tử Thái Thúc kiến Triệu Giản Tử, Giản Tử vấn ấp nhượng chu tuyền chi lễ yên. Đối viết: ‘Thị nghi dã, phi lễ dã’.
          子大叔見趙簡子, 簡子問揖讓周旋之禮焉. 對曰: ‘是儀也, 非禮也.’
          (Tử Thái Thúc yết kiến Triệu Giản Tử, Triệu Giản Tử hỏi về lễ tới lui vái chào và nhường nhau giữa chủ và khách. Tử Thái Thúc đáp rằng: ‘Đó là nghi chứ không phải là lễ’.)
          Trong  Giải trào解嘲  của Dương Hùng 揚雄:
Toại tác quân thần chi nghi
遂作君臣之儀
(Bèn chế định ra nghi lễ giữa vua tôi)
          Dẫn đến nghĩa pháp độ. Trong Quốc ngữ - Chu ngữ hạ 國語 - 周語下có ghi:
Thị dân quỹ nghi dã
示民軌儀也
(Cho dân biết về pháp độ quy tắc)

DUNG
1- Dung nạp, chứa được:
          Trong Thi – Vệ phong – Hà quảng - 衛風 - 河廣có câu:
Thuỳ vị Hà quảng
Tằng bất dung đao
誰謂河廣
曾不容刀
(Ai bảo Hoàng hà là rộng lớn
Vì nó từng chứa không được chiếc thuyền nhỏ)
(Đao là chiếc thuyền nhỏ)
          Trong Trang Tử - Tiêu dao du 莊子 - 逍遙遊:
Phẫu chi dĩ vi biều, tắc hoạch lạc vô sở dung.
剖之以為瓢, 則瓠落無所容
(Bổ ra làm cái bầu thì nó vô dụng không chứa được gì)
          Trong Thướng thư gián Ngô vương上書諫吳王 của Mai Thặng 枚乘:
Gian bất dung phát
間不容髮
(Khoảng cách giữa chúng nhỏ đến mức ngay cả sợi tóc  cũng chứa không được)
          Dùng ở ý nghĩa trừu tượng, biểu thị bao dung, khoan dung. Trong Luận ngữ - Tử Trương 論語 - 子張có ghi:
Quân tử tôn hiền nhi dung chúng
君子尊賢而容眾
(Quân tử tôn kính người hiền mà khoan dung mọi người)
          Trong Báo Nhậm An thư 報任安書  của Tư Mã Thiên司馬遷:
Cẩu hợp thủ dung
苟合取容
(Nghinh hợp với tâm ý của hoàng thượng để dung được địa vị của mình)
2- Dung mạo, dung sắc
          Trong Trang Tử - Đức sung phù 莊子 - 德充符:
Tử Sản xúc nhiên cải dung canh mạo
子產蹵然改容更貌
(Tử Sản cung kính áy náy thay đổi dung mạo)
          Và trong chương Thiên địa 天地:
Phu tử hà cố kiến chi biến dung thất sắc, chung nhật bất tự phản da?
夫子何故見之變容失色, 終日不自反邪?
(Vì sao gặp ông ta tiên sinh lại thất sắc biến đổi dung mạo, suốt cả ngày không trở lại thần thái bình thường?)
          Trong Sở từ - Ngư phủ 楚辭 - 漁父:
Nhan sắc tiều tuỵ, hình dung khô cảo
顏色憔悴, 形容枯槁
(Nhan sắc tiều tuỵ, hình dung héo úa)
3- “Dung dữ” 容與: từ song thanh, có nghĩa là thung dung nhàn nhã.
          Trong Sở từ - Li tao 楚辭 - 離騷 có câu:
Tuân Xích thuỷ nhi dung dữ
遵赤水而容與
(Thung dung theo Xích thuỷ)
          Và trong Cửu ca – Tương quân 九歌 - 湘君:
Liêu tiêu dao hề dung dữ
聊逍遙兮容與
(Hãy tiêu dao và thảnh thơi)
          Trong Lạc thần phú 洛神賦 của Tào Thực 曹植 :
Dung dữ hồ Dương Lâm
容與乎陽林
(Thung dung chốn Dương Lâm)
          Dẫn đến ý nghĩa dùng dằng không tiến lên được. Như trong Biệt phú 別賦của Giang Yêm 江淹có câu:
Trạc dung dữ nhi cự tiền?
Mã hàn minh nhi bất tức
櫂容與而詎前
馬寒鳴而不息
(Mái chèo ngập ngừng, há thuyền tiến lên được?
Ngựa cất tiếng kêu thê lương không dứt)

Phân biệt “dung”  “mạo”  
          “Dung” và “mạo” là từ đồng nghĩa, thường dùng chung nhau. Nhưng phân tích kĩ, thì “dung” đa phần dùng ở biểu hiện nội tâm, như trong Mạnh Tử - Vạn Chương thượng 孟子 - 萬章上có câu:
Thuấn kiến Cổ Tẩu, kì dung hữu túc
舜見瞽瞍,其容有蹙
(Khi vua Thuấn gặp Cổ Tẩu, sắc mặt có vẻ cung kính)
          Còn “mạo” đa phần dùng ở dáng vẻ bề ngoài, như trong trong Sử kí – Nguỵ Kì Vũ An Hầu liệt truyện 史記 - 魏其武安侯列傳có ghi:
Vũ An giả mạo xâm
武安者貌侵
(Vũ An Hầu tướng mạo thấp lùn xấu xí)

                                                       Huỳnh Chương Hưng
                                                       Quy Nhơn 24/5/2018

Nguyên tác Trung văn trong
CỔ ĐẠI HÁN NGỮ
古代漢語
(tập 4)
Chủ biên: Vương Lực 王力
Trung Hoa thư cục, 1998.
Previous Post Next Post