PHƯƠNG THỨC
TU TỪ “TÁ ĐẠI” Ở CÂU ĐỐI
Tá
đại rất nhiều dạng, đại thể có thể chia làm 3 loại:
-
Dùng một sự vật B có mối quan hệ mật thiết với sự vật A thay cho sự vật A, như
dùng nhân danh, quan danh, địa danh thay cho sự vật, lấy nghề nghiệp, lao động
thay cho người.
Cuối
đời Thanh, Tổng đốc Trực Lệ 直丽 kiêm Bắc dương đại
thần là Lí Hồng Chương 李鸿章, tổ tịch tại Hợp
Phì 合肥 An Huy 安徽, cho nên xưng là Lí
Hợp Phì 李合肥; còn Thượng thư bộ Hộ Ông Đồng Hoà 翁同龢 là người ở Thường Thục 常熟
Giang Tô 江苏, cho nên xưng là Ông Thường Thục 翁常熟.
Đương
thời có người làm câu đối phúng thích họ:
Tể tướng Hợp
Phì thiên hạ sấu
Tư Nông Thường
Thục thế gian hoang
宰相合肥天下瘦
司农常熟世间荒
Cặp
đối này dùng phép tu từ tá đại, lấy địa danh thay nhân danh, Hợp Phì thay cho
Lí Hồng Chương. Thường Thục thay cho Ông Đồng Hoà, tuy không nêu tên ra nhưng mọi
người ai cũng biết. “Phì” 肥 (mập) cùng với “sấu”
瘦 (gầy), “thục” 熟
(được mùa) cùng với “hoang” 荒(mất mùa) đối nhau.
-
Một loại khác lấy công dụng, chức năng, đặc trưng, tiêu chí, trạng thái, thuộc
tính, số lượng của sự vật thay cho sự vật. Như:
Bảo kiếm
phong tùng ma lệ xuất
Mai hoa hương
tự khổ hàn lai
宝剑锋从磨砺出
梅花香自苦寒来
Cặp
đối này, dùng “bảo kiếm” 宝剑 để ví “người kiệt
xuất”, dùng “mai hoa” 梅花 để ví “người cao
thượng”, dùng “phong” 锋 (mũi nhọn của kiếm)
để ví “tài năng” 才能 của người kiệt xuất, dùng “hương” 香 (mùi thơm) của hoa mai để ví “phẩm đức” 品德 của người cao thượng. “Kiếm” và “hương” đều là chức
năng, thuộc tính của sự vật dùng thay thế cho sự vật đó.
-
Một loại nữa lấy bộ phận thay thế cho chỉnh thể, lấy đặc thù thay cho thông thường,
lấy nguyên liệu thay cho thành phẩm, lấy kết quả thay cho nguyên nhân, lấy cụ
thể thay cho trừu tượng, lấy thực số thay cho hư số. Như:
Thử vị dị
tri, đản tu lục dã thân tự chủng
Đối tha hữu
quý, chỉ khủng thương sinh thái sắc đa
此味易知, 但须绿野亲自种
对他有愧, 只恐苍生菜色多
Đây
là cặp đối của quan Phụ chính triều Thanh là Thái Bảo Ngạc Nhĩ Thái 太保鄂尔泰 sau khi từ chức trở về thấu hiểu dân tình cực khổ đã
viết ra. Về trên dùng “thử vị” 此味 thay cho “thái căn”
菜根 (chỉ món ăn thô sơ đạm bạc) và “thái căn chi khổ” 菜根之苦 (vị đắng của thái căn), dùng “lục dã” 绿野” (đồng xanh) thay cho “trang giá” 庄稼 (mùa màng), “nông tác vật” 农作物.
Vế dưới dùng “tha” 他 (đơn số), thay cho “cần khổ bách tính” 勤苦百姓 (bách tính lao khổ) (phức số), dùng “thái sắc” 菜色 (sắc rau) thay cho “cơ cận chi sắc” 饥馑之色 (sắc mặt đói kém), “bần khổ sinh hoạt” 贫苦生活 (cuộc sống nghèo khổ)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 06/4/2014
Nguồn
TRUNG HOA ĐỐI LIÊN TẢ TÁC
中华对联写作
Tác giả: La Duy Dương 罗维扬
Trường Sa: Nhạc Lộc thư xã, 2004
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật