河滿子
碧落茫茫秋氣
經霜綠葉初紅
楓樹山坡催色
斜陽來雁天空
籬菊清香飄起
閑看歸去陶公
HÀ MÃN TỬ
Bích lạc mang mang
thu khí
Kinh sương lục diệp
sơ hồng
Phong thụ sơn pha
thôi sắc
Tà dương lai nhạn
thiên không
Li cúc thanh hương
phiêu khởi
Nhàn khan “Quy khứ” Đào Công
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 06/10/2024
Bích
lạc 碧落: Đạo giáo gọi tầng trời thứ nhất
ở phương đông có ráng biếc là “bích lạc” 碧落. Về sau “bích lạc” 碧落dùng để phiếm chỉ bầu trời. Bạch
Cư Dị 白居易đời
Đường trong bài Trường hận ca 長恨歌khi thuật lại việc Đường Huyền Tông 唐玄宗sai phương sĩ lên trời cao xuống
đất sâu khổ công tìm Dương Quý Phi 楊貴妃, có viết:
Thượng cùng bích lạc
hạ hoàng tuyền
Lưỡng xứ mang mang
giai bất kiến
上窮碧落下黃泉
兩處茫茫皆不見
(Trên đến tận cùng bích lạc, dưới
xuống tận hoàng tuyền
Nhưng cả hai nơi mênh mông tìm
không thấy)
Mang mang 茫茫: mênh mông, bao la.
Sơn pha 山坡: triền núi.
Quy khứ 歸去: tức “Quy khứ lai hề từ” 歸去來兮辭, một tác phẩm nổi tiếng của Đào
Tiềm đời Tấn.
Đào Công 陶公: tức Đào Tiềm 陶潛 / 陶潜.
Đào Tiềm 陶潜,
tự Nguyên Lượng 元亮, hiệu Ngũ
Liễu tiên sinh 五柳先生, sau khi
về với nhà Lưu Tống (thuộc Nam triều – ND) mới đổi tên là Tiềm. Ông là thi
nhân, văn học gia, từ phú gia, tản văn gia cuối thời Đông Tấn, đầu nhà Tống của
Nam triều, người Sài Tang 柴桑
Tầm Dương 浔阳 (nay là thành phố Cửu Giang - 九江 tỉnh Giang Tây - 江西).
Đào Tiềm lúc trẻ có chí lớn, năm Thái Nguyên 太元 thứ 18 đời Hiếu Vũ Đế (393),
ông ôm ấp nguyện vọng “đại tế thương sinh” (大济苍生
– cứu giúp nhân dân), nhậm chức Giang Châu tế tửu. Lúc bấy giờ chế độ quân phiệt
nghiêm nhặt, ông xuất thân thứ tộc, mọi người có ý coi thường, ông liền từ chức
về quê. Năm Long An 隆安 thứ 4 đời
An Đế (400), Đào Tiềm đến Kinh Châu 荆州
làm thuộc lại dưới trướng Hoàn Huyền 桓玄.
Lúc bấy giờ Hoàn Huyền khống chế cả vùng trung và thượng du Trường giang, đang
chực thời cơ soán đoạt chính quyền nhà Đông Tấn. Đào Tiềm đương nhiên không thể
làm người tâm phúc cho kẻ có dã tâm. Mùa Đông năm Long An thứ 5, nhân có tang mẹ
ông từ chức về quê. Tháng Giêng năm Nguyên Hưng 元兴 thứ nhất (402), Hoàn Huyền
cử binh đối kháng với triều đình, đánh vào Kiến Khang 建康, đoạt lấy quân chính đại quyền nhà Đông Tấn. Năm
Nguyên Hưng thứ 2, Hoàn Huyền soán đoạt đế vị, đổi tên nước là Sở, giam An Đế ở
Tầm Dương. Năm Nguyên Hưng thứ 3 Kiến quan Võ tướng quân, Thái thú Hạ Bì 下邳là Lưu Dụ 刘裕liên kết cùng các quan lại như Lưu Nghị 刘毅, Hà Vô Kỵ 何无忌, từ Kinh Khẩu 京口
(nay là Trấn Giang, Giang Tô) khởi binh thảo phạt Hoàn Huyền. Hoàn Huyền bại trận
chạy về phía tây. Đào Tiềm rời nhà đến đầu nhập dưới trướng Lưu Dụ, giữ chức Trấn
quân tham quân (có thuyết cho rằng sau khi Lưu Dụ công hạ được Kiến Khang, Đào
Tiềm mới về với Lưu Dụ). Sau khi Lưu Dụ lấy được Kiến Khang cũng trở nên bạo
ngược, Đào Tiềm cảm thấy thất vọng, liền sau đó ông từ chức về ẩn cư. Năm Nghĩa
Hy 义熙 thứ nhất (405), ông đến với
Thứ sử Giang Châu Lưu Kính Tuyên 刘敬宣 giữ chức Kiến Uy tham quân. Tháng 3 , ông vâng mệnh đến Kiến
Khang thay Lưu Kính Tuyên dâng biểu từ chức. Sau khi Lưu Kính Tuyên từ chức,
ông cũng từ chức. Mùa Thu năm đó, thúc phụ là Đào Quỳ 陶逵 giới thiệu Đào Tiềm làm huyện lệnh Bành Trạch 彭泽. Làm được 81 ngày, gặp viên
Đốc bưu quận Tầm Dương đến, bọn thuộc hạ bảo ông “phải thắt đai ra nghinh tiếp”.
Ông than rằng:
Ngã khởi năng vị ngũ đấu mễ chiết yêu hướng hương lý tiểu nhi
我岂能为五斗米折腰向乡里小儿
(Ta há vì năm đấu gạo
mà khom lưng trước bọn quan lại trong làng)
bèn
trả ấn từ quan.
Cuộc đời 13 năm làm quan của Đào Tiềm
từ đầu đến lúc từ bỏ chức huyện lệnh Bành Trạch là kết thúc. Trong 13 năm này,
vì hoài bão lý tưởng “đại tế thương sinh”, ông không ngừng thử nghiệm để rồi
không ngừng thất vọng và cuối cùng tuyệt vọng. Bài Quy khứ lai hề từ 归去来兮辞 của ông đã biểu thị sự
đoạn tuyệt với giai cấp thống trị thượng tầng, biểu thị quyết tâm không chịu
chung dòng ô trọc với thế tục.
Đào Tiềm rất yêu thích hoa cúc, chung
quanh nhà ông trồng đầy hoa cúc. Ông cũng thích uống rượu, hễ uống là uống tới
say. Năm Nghĩa Hy thứ 4, nhà bị cháy, ông dời đến Lật Lý 栗里 (nay là Đào thôn, huyện Tinh Tử - 星子), cuộc sống tương đối vất vả.
Về già cuộc sống càng khốn khó hơn,
nhiều lúc bạn bè chủ động trợ giúp. Năm 427, Đào Tiềm qua đời (về năm sinh của
Đào Tiềm còn đang khảo chứng), có tên thuỵ là Tĩnh Tiết 靖节. Ông được an táng dưới chân Nam sơn, hiện nay là
nơi tiếp giáp giữa hai huyện Cửu Giang 九江
và Tinh Tử 星子 đối diện với
Dương sơn.
Nguồn http://baike.baidu.com/view/126079.htm
Tạm dịch
Khí thu lãng đãng
trên bầu trời mênh mông
Lá xanh đẫm sương bắt
đầu chuyển đỏ
Rừng cây phong nơi
triền núi giục nhau thay sắc
Trên không trong chiều
tà, chim nhạn bay về
Cúc bên hàng giậu toả
hương thơm nhẹ
Ngồi nhàn đọc bài
“Quy khứ” của Đào Công