好離鄉
黄菊傲霜開
去歲東籬小徑栽
秋到賞花茶數盞
舒懷
仰看天空北雁來
故里起塵埃
金井梧桐細露排
幾度海潮流歲月
青苔
望待人鞋
Hoàng
cúc ngạo sương khai
Khứ tuế
đông li tiểu kính tài
Thu đáo
thưởng hoa trà sổ trản
Thư hoài
Ngưỡng
khán thiên không bắc nhạn lai
Cố lí
khởi trần ai
Kim tỉnh
ngô đồng tế lộ bài
Kỉ độ
hải triều lưu tuế nguyệt
Thanh đài
Vọng đãi nhân hài
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 30/12/2023
Kim tỉnh 金井: tức giếng vàng.
Thời
cổ, người ta dùng gỗ gác từ dưới giếng lên để giữ cho vách giếng khỏi bị sụp,
phần nhô lên mặt đất gọi là “tỉnh lan” 井栏. Giếng
mà “tỉnh lan” có chạm trỗ gọi là “kim tỉnh” 金井.
Trong
thơ cổ và từ cổ Trung Quốc, thường bắt gặp hình ảnh cây ngô đồng bên giếng,
như:
Trong
Tặng biệt Xá nhân đệ Thai Khanh chi Giang
Nam 赠別舍人弟台卿之江南của Lí Bạch 李白có câu:
Ngô đồng lạc kim tỉnh
Nhất diệp phi ngân sàng
梧桐落金井
一叶飞银床
(Lá ngô đồng rụng xuống giếng vàng
Có lá còn bay đến bên giường bạc)
Trong Trường Tín oán (Kim tỉnh ngô đồng thu diệp hoàng) 长信怨 (金井梧桐秋叶黄) của Vương
Xương Linh 王昌龄 có câu:
Kim tỉnh ngô đồng thu diệp hoàng
Châu liêm bất quyển dạ lai sương
金井梧桐秋叶黄
珠帘不卷夜来霜
(Cây ngô đồng bên giếng vàng, lá vào thu đã trở vàng
Rèm châu không cuốn lên, đêm mang sương đến)
Trong
bài từ theo điệu Thái tang tử 采桑子 của Lí Dục 李煜 có câu:
Lộc lô kim tỉnh ngô đồng vãn
Kỉ thụ kinh thu
辘轳金井梧桐晚
几树惊秋
(Trời vào thu đã lâu, ngô đồng bên giếng vàng có
chiếc ròng rọc, lá rụng đầy
Mấy cây vào thu đổi sắc, người nhìn thấy thêm sầu)
Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du cũng đã viết:
Thú quê thuần hức bén mùi
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô
(“Truyện Kiều” 1593 - 1594)