Sáng tác: Hành bất đắc - Ngô diệp lạc (HCH)

 

行不得

梧葉落

想蒓鱸

一隻鶴

寄心思

萬里千重隔山水

翹首嬋娟共長久

白駒歲月望雁魚

但願年度人安居

 HÀNH BẤT ĐẮC

Ngô diệp lạc

Tưởng thuần lư

Nhất chích hạc

Kí tâm tư

Vạn lí thiên trùng cách sơn thuỷ

Kiều thủ thiền quyên cộng trường cửu

Bạch câu tuế nguyệt vọng nhạn ngư

Đản nguyện niên độ nhân an cư

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 31/12/2023 

Thuần lư 蒓鱸 / 莼鲈: Điển xuất từ thành ngữ “Thuần lư chi tư” 莼鲈之思, hình dung tình cảm nhớ quê hương.

          Thuần  là tên một loại rau; lư  là tên một loại cá. Thành ngữ “Thuần lư chi tư” liên quan đến câu nói của Trương Hàn 张翰 thời Tây Tấn:

          Trương Hàn 张翰 tự Quý Ưng 季鹰, người Ngô Giang 吴江, là một tài tử, thi thư đều giỏi. Nói đến Trương Hàn, người ta thường nhắc đến món rau thuần và cá lư. Trong Tấn thư – Trương Hàn truyện 晋书 - 张翰传 có viết:

          Trương Hàn tại Lạc, nhân kiến thu phong khởi, nãi tư Ngô Trung uyển thái thuần canh, lư ngư quái, viết: ‘Nhân sinh quý thích chí, hà năng ki hoạn sổ thiên lí dĩ yếu danh tước hồ!’ Toại mệnh giá nhi quy.

          张翰在洛, 因见秋风起, 乃思吴中苑菜莼羹, 鲈鱼脍, : ‘人生贵适志, 何能羁宦数千里以要名爵乎!’ 遂命驾而归.

          (Trương Hàn lúc ở tại ấp Lạc, thấy gió thu nổi lên, liền nhớ tới món canh rau thuần, thịt cá lư thái nhỏ ở quê nhà Ngô Trung, bèn nói rằng: ‘Đời người quý ở chỗ được theo chí của mình, sao lại vì việc mưu cầu công danh tước vị mà trói buộc thân mình nơi xa ngàn dặm.’ Bèn sai thị tùng đóng ngựa trở về quê nhà)

http://www.huaxia.com/wh/zsc/2006/00518530.htmlg

Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du cũng đã viết:

Thú quê thuần hức bén mùi

Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô

(“Truyện Kiều” 1593 - 1594)

Thiền quyên 嬋娟: Mượn chỉ vầng trăng. Trong bài từ theo điệu “Thuỷ điệu ca đầu” 水調歌頭 của Tô Thức 蘇軾có câu:

Đản nguyện nhân trường cửu

Thiên lí cộng thiền quyên

但願人長久

千里共嬋娟

(Chỉ cầu người mà mình mong nhớ được bình yên mãi mãi,

Dù cách trăm sông ngàn núi, cũng có thể cùng nhau ngắm vầng trăng sáng.)

Bạch câu 白駒: Tức “Bạch câu quá khích” 白驹过隙 (bóng câu qua cửa sổ). “Bạch câu” 白驹tức tuấn mã sắc trắng; “khích”  là khe hở. Con tuấn mã chạy vụt qua khe hở, hình dung thời gian trôi qua thật nhanh, điển xuất từ Trang Tử - Trí bắc du 庄子 - 知北游. Trong Trí bắc du có câu:

          Nhân sinh thiên địa chi gian, nhược bạch câu chi quá khích, hốt nhiên nhi dĩ.

          人生天地之间若白驹之过隙忽然而已.

          (Đời người trong khoảng trời đất, giống như bóng câu qua cửa sổ, thoáng một cái đã qua mất.)

          Trong Sử kí – Lưu Hầu thế gia 史记 - 留侯世家 của Tư Mã Thiên 司马迁thời Tây Hán có câu:

          Nhân sinh nhất thế gian, như bạch câu quá khích, hà chí tự khổ như thử hồ!

          人生一世间如白驹过隙何至自苦如此乎!

          (Đời người trên thế gian như bóng câu qua cửa sổ, hà tất phải tự làm khổ mình như thế!)

          Và trong Hán thư 汉书 quyển 33 – Nguỵ Báo truyện 魏豹传của Ban Cố  班固thời Đông Hán:

Nhân sinh nhất thế gian, như bạch câu quá khích.

人生一世间如白驹过隙.

(Đời người trên thế gian, như bóng câu qua cửa sổ).

https://baike.baidu.com/item/%E7%99%BD%E9%A9%B9%E8%BF%87%E9%9A%99/2217?fromModule=lemma_inlink

Nhạn ngư 雁魚: Tức “nhạn tín ngư thư” 雁信鱼书cũng nói “ngư thư nhạn tín” 鱼书雁信, phiếm chỉ thư tín

Nhạn tín 雁信: Tin nhạn, xuất từ điển Tô Vũ.

          Tô Vũ 苏武 (năm 140 – năm 60 trước công nguyên), người Đỗ Lăng 杜陵, nhà ngoại giao kiệt xuất thời Tây Hán. Thời Hán Vũ Đế 汉武帝giữ chức Lang . Năm Thiên Hán 天汉nguyên niên (năm 100 trước công nguyên) phụng mệnh đi sứ Hung Nô, bị giữ lại. Quý tộc Hung Nô nhiều lần uy hiếp dụ dỗ, muốn ông đầu hàng, nhưng ông không chịu. Về sau Tô Vũ bị đày đến Bắc Hải 北海 chăn dê. Trải qua mười mấy năm ở Hung Nô, Tô Vũ vẫn kiên cường bất khuất.

          Năm Hậu Nguyên 后元 thứ 2 – niên hiệu của Hán Vũ Đế, (năm 87 trước công nguyên), Chiêu Đế 昭帝lên ngôi. Mấy năm sau, Hung Nô và triều Hán đạt được hoà nghị, triều Hán cho tìm Tô Vũ nhưng Hung Nô nói gạt là Tô Vũ đã chết.  Triều Hán phái sứ giả đến Hung Nô. Thường Huệ 常惠 - viên phó sứ cũng bị giữ lại ở Hung Nô, xin người canh giữ mình đang đêm cùng với người đó đến gặp Hán sứ, thuật lại tình hình của Tô Vũ, bảo Hán sứ nói với Thiền Vu 單于 rằng: Thiên tử triều Hán trong lúc đi săn ở vườn Thượng Lâm 上林, bắn được một con chim nhạn, nơi chân có buộc một bức thư, trong thư nói là Tô Vũ hiện đang ở Bắc Hải. Hán sứ vô cùng vui mừng, theo lời của Thường Huệ trách Thiền Vu. Thiền Vu vô cùng kinh ngạc xin lỗi Hán sứ, nói rằng: “Quả thực Tô Vũ hãy còn sống”.

          Mùa xuân năm Thuỷ Nguyên 始元thứ 6 (năm 81 trước công nguyên) đời Hán Chiêu Đế, Tô Vũ được phóng thích trở về lại Trường An 长安

https://baike.baidu.com/item/%E8%8B%8F%E6%AD%A6/517980

          Về sau, người ta thường dùng “nhạn tín” 雁信, “nhạn thư” 雁书, “nhạn bạch” 雁帛 để chỉ thư tín.

Ngư thư魚書: Trong  Nhạc phủ thi tập – Tương hoà ca từ thập tam -  Ấm mã trường thành quật hành chi nhất 樂府詩集 - 相和歌辭十三 - 飲馬長城窟行之一 có chép:

Khách tùng viễn phương lai

Dị ngã song lý ngư

Hô nhi phanh lý ngư

Trung hữu xích tố thư

客從遠方來

遺我雙鯉魚

呼兒烹鯉魚

中有尺素書

(Khách từ phương xa đến

Tặng cho ta hai con cá chép

Gọi trẻ đem cá mổ

Thấy trong bụng cá có phong thư)

          Về sau từ “ngư thư” hoặc “tin cá” dùng để chỉ tin tức.

          Có thuyết cho rằng: “song lí ngư” 雙鯉魚là chỉ thư tín. Người xưa khi gởi thư thường cất thư vào trong chiếc hộp được làm bằng hai mảnh gỗ có hình con cá  ghép lại, gọi là “song lí ngư”. Đương nhiên trong đoạn thơ có nói “gọi trẻ đem cá mổ” không phải là thực, mà là bảo con mở hộp thư bằng gỗ có dạng hình cá chép mà thôi.

https://zhidao.baidu.com/question/554713856.html

Previous Post Next Post