KẾT CẤU CỦA HÁN TỰ - CHUYỂN CHÚ
Trong Thuyết văn giải tự - Tự 说文解字 - 叙 có ghi:
Chuyển chú giả, kiến loại nhất thủ, đồng
ý tương thụ, khảo lão thị dã.
转注者, 建类一首, 同意相授, 考老是也
(Chuyển
chú là dưới bộ thủ được kiến lập là những chữ có thể hỗ tương truyền thụ ý
nghĩa, như chữ khảo chữ lão)
Ý là,
chuyển chú là loại mà dưới bộ thủ được kiến lập, là những chữ có thể hỗ tương
truyền thụ ý nghĩa, chữ khảo chữ lão chính là chữ chuyển chú. Do bởi người đời
sau đối với việc kiến lập bộ thủ đã lí giải khác nhau, càng do bởi Thuyết văn giải tự 说文解字 minh xác chỉ ra chữ chuyển chú chỉ có 2 chữ là 考 (khảo) và 老 (lão), cho nên
trăm ngàn năm nay, người ta đối với việc lí giải chuyển chú đã có nhiều thuyết
khác nhau, chưa đi đến nhất trí. Có người cho rằng, chuyển chú chủ yếu là chuyển
biến tự hình, được gọi là “Hình chuyển phái” 形转派;
có người cho rằng, chuyển chú chủ yếu là chuyển biến tự nghĩa, được gọi là
“Nghĩa chuyển phái” 义转派; có người cho rằng, chuyển chú chủ yếu là chuyển biến
tự âm, được gọi là “Âm chuyển phái” 音转派.
Lương
Đông Hán 梁东汉 trong
Hán tự đích kết cấu cập kì lưu biến 汉字的结构及其流变 cho
rằng, chuyển chú đã là “kiến loại nhất thủ, đồng ý tương thụ”, thì nhất định nó
là loại chữ hỗ huấn cùng bộ. Ví dụ:
Nghị, luận dã; Luận, nghị dã.
议, 论也; 论, 议也.
(Nghị là luận; Luận là nghị)
Hai chữ 议 (nghị) và 论 (luận) đều cùng bộ 言
(ngôn)
Phùng, ngộ dã; Ngộ, phùng dã.
逢, 遇也; 遇, 逢也
(Phùng
là ngộ; Ngộ là phùng)
Hai chữ
逢 (phùng)
và 遇 (ngộ)
đều cùng bộ 辵 (sước)
Thân, ngâm dã; Ngâm, thân dã.
呻, 吟也; 吟, 呻也
(Thân
là ngâm; Ngâm là thân)
Hai chữ
呻 (thân)
và 吟 (ngâm)
đều cùng bộ 口 (khẩu)
Tẩu, xu dã; Xu, tẩu dã.
走趋也趋走也
(Tẩu là
xu; Xu là tẩu)
Hai chữ
走 (tẩu)
và 趋 (xu)
đều cùng bộ 走 (tẩu).
Trong Thuyết văn giải tự, chữ hỗ huấn cùng bộ
tổng cộng có 114 cặp, chúng đều là chữ chuyển chú.
Loại ý
kiến này đã nắm vững định nghĩa về chuyển chú, so với một số ý kiến cho rằng
quan hệ giữa bộ thủ và chữ do bộ quản hạt là chuyển chú; quan hệ giữa từ đồng
nghĩa với nhau là chuyển chú; quan hệ giữa nghĩa gốc của từ và nghĩa phái sinh
là chuyển chú, đối với chữ hình thanh đổi thanh bàng để tạo ra chữ là chuyển
chú v.v... lại càng phù hợp với định nghĩa về chuyển chú, đáng để chú trọng.
Nhưng theo ý kiến này, chuyển chú chẳng qua chỉ là mối quan hệ đặc thù của hai
chữ (đồng bộ hỗ huấn), hoàn toàn không phải là phép tạo chữ, không thể đánh đồng
với loại tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, giả tá, e là không phải loại
chuyển chú mà Hứa Thận 许慎 nói.
Thế
thì, chuyến chú rốt cuộc là như thế nào? Phải nói rằng, đây là vấn đề cần phải
tiến thêm một bước nghiên cứu. Những lời dưới đây chỉ là kiến giải hạn hẹp của
người viết, đề xuất ra để độc giả tham khảo:
Chúng
tôi cho rằng, ở từ đa nghĩa, gia thêm thiên bàng tạo phân hoá chữ, mới là chuyển
chú chân chính. Ví dụ:
反 phản / 返 phản , 辟 tích / 避 tị , 禽 cầm / 擒 cầm,
益ích / 溢 dật, 莫 mạc / 暮 mộ, 取thủ / 娶 thú,
共 cộng / 供 cung, 责 trách / 债 trái, 师 sư / 狮 sư.
Chữ sau là chữ do chữ trước gia thêm thiên bàng tạo thành, chia ra đảm nhậm một hai nét nghĩa của chữ trước. Đây chính là nói “kiến loại nhất thủ, đồng ý tương thụ”. Sự xuất hiện của loại chữ này là một giai đoạn trọng yếu trong sự phát triển chữ Hán. Số lượng chữ dùng cách này tạo ra rất lớn, cho nên chuyển chú có thể ngang hàng với tượng hình, chỉ sự, hội ý ... là một trong những phương pháp cơ bản của việc tạo chữ. Nhưng chữ mà dùng phương pháp chuyển chú tạo ra đều là loại hình thanh tự, nhất hình nhất thanh, cho nên Hứa Thận trong Thuyết văn giải tự, chữ hình thanh có bảy tám ngàn, mà chuyển chú chỉ nêu có ví dụ 2 chữ là “khảo” và “lão”, tựa hồ chuyển chú là loại có cách mà không có chữ, khiến người ta khó lí giải. Đó chính là nguyên nhân tại sao người ta đối với chuyển chú có nhiều thuyết khác nhau.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 24/02/2021
Nguồn
CỔ HÁN NGỮ TỐC THÀNH ĐỘC BẢN
古汉语速成读本
Biên soạn: Lưu Khánh Nga 刘庆俄
Trung Hoa thư cục, 2005