Dịch thuật: Thành Cát Tư Hàn (Hãn) thống nhất Mông Cổ

 

THÀNH CÁT TƯ HÀN (HÃN) THỐNG NHẤT MÔNG CỔ 

          Năm 1162 (Năm Đại Định 大定 thứ 2 đời Kim Thế Tông 金世宗, năm Thiệu Hưng 绍兴 thứ 32 đời Cao Tông 高宗 triều Nam Tống), trên cao nguyên Mông Cổ, người vợ Ha Ngạch Luân 诃额仑 của tù trưởng bộ tộc Mông Cổ Dã Tốc Cai 也速该 sinh được một đứa con trai. Hôm đó, Dã Tốc Cai thống lãnh bộ chúng tập kích người Tháp Tháp Nhi 塔塔儿, giành được thắng lợi. Để kỉ niệm lần thắng lợi này, Dã Tốc Cai đặt tên cho đứa bé mới sinh là Thiết Mộc Chân 铁木真, ý nghĩa là “tinh cương” 精钢.

          Do vì bộ tộc Mông Cổ và bộ tộc Tháp Tháp Nhi thường xảy ra giao tranh, cho nên thời đồng niên và thanh niên của Thiết Mộc Chân là ở trong chiến tranh. Năm Thiết Mộc Chân 9 tuổi, phụ thân của ông bị người Tháp Tháp Nhi đầu độc chết.

          Sau khi Dã Tốc Cai qua đời, thuộc bộ và các võ sĩ của ông thấy thế lực của bộ tộc Mông Cổ dần suy yếu, nên lần lượt li khai. Qua mấy năm, chủ nô của bộ Thái Xích Ô 泰赤乌của bộ thuộc trước đó lo sợ Thiết Mộc Chân sau khi trưởng thành sẽ báo thù, nên đã dùng biện pháp tập kích bất ngờ bắt Thiết Mộc Chân, cho đeo gông để thị chúng. Về sau, Thiết Mộc Chân thừa lúc người bộ Thái Xích Ô tổ chức yến tiệc, đã dùng gông đánh ngã người canh, dưới sự giúp đỡ của cha con nô lệ Toả Nhi Hãn Phu Thích 锁儿罕夫刺, trốn về lại nhà. Chẳng bao lâu, lại gặp phải sự tập kích của người Miệt Nhi Khất 蔑儿乞 trong lúc tháo chạy, vợ của ông bị bắt đi, trở thành tù nhân của người Miệt Nhi Khất.

          Sự thất bại và gian khổ đã rèn kuyện ý chí của Thiết Mộc Chân, ông nén nỗi đau đem chiếc áo da điêu đen, vật hồi môn của vợ, dâng cho Thoát Oát Lí Lặc Hàn 脱斡里勒汗 của bộ Khắc Liệt 克烈, gọi ông ta là nghĩa phụ. Thiết Mộc Chân lại kết nghĩa huynh đệ với Trát Mộc Hợp 札木合, thủ lĩnh của bộ Trát Đáp Khoát Nhi 札答阔儿, để tranh thủ sự ủng hộ của họ. Họ liên hợp xuất binh đánh bại người Miệt Nhi Khất, đoạt lại người vợ của Thiết Mộc Chân. Lần thắng lợi đó làm cho Thiết Mộc Chân bắt đầu khôi phục nguyên khí, nhiều thuộc bộ ngày trước và các dũng sĩ  lần lượt trở về đầu bôn Thiết Mộc Chân. Năm 1189 (năm Đại Định thứ 25 đời Kim Thế Tông), một số chủ nô ủng hộ Thiết Mộc Chân giữ chức vụ Hàn (Hãn) (xưng hiệu của người thống trị tối cao của dân tộc thiểu số phương bắc).

          Thắng lợi của Thiết Mộc Chân khiến Trát Mộc Hợp không vui. Đương lúc em trai của Trát Mộc Hợp do bởi cướp đoạt bầy ngựa của Thiết Mộc Chân bị người tộc Mông Cổ giết chết, Trát Mộc Hợp lấy cớ  phát động 3 vạn người của 13 bộ sở thuộc tấn công Thiết Mộc Chân. Thiết Mộc Chân cũng đem 3 vạn sĩ binh của mình phân thành 13 cánh nghinh chiến Trát Mộc Hợp. Hai bên triển khai một trận đại chiến tại Đáp Lan Ba Lặc Chủ Dịch 答兰巴勒主惕 bên bờ Khắc Lỗ Luân 克鲁伦. Đó chính là trận “Thập tam dực chi chiến” nổi tiếng trong lịch sử Mông Cổ. Kết quả, Thiết Mộc Chân bị đánh bại, nhưng do bởi Trát Mộc Hợp sát hại tù binh một cách tàn khốc, đã gây ra sự bất mãn của các bộ hạ của ông, họ mạnh mẽ thoát li Trát Mộc Hợp, đầu bôn đến bộ hạ Thiết Mộc Chân, Thiết Mộc Chân chuyển hoạ thành phúc, lực lượng mạnh lên. 

          Chẳng bao lâu, thủ lĩnh bộ Tháp Tháp Nhi là Miệt Cổ Chân 蔑古真phản kháng triều Kim, hoàng đế triệu Kim lệnh cho Đại tướng Hoàn Nhan Tương 完颜襄 đem binh đánh Tháp Tháp Nhi. Thiết Mộc Chân tiếp thụ phong chức của triều Kim, tham gia lần chiến đấu này. Kết quả, Thiết Mộc Chân không chỉ báo được thù, mà còn bắt được bộ dân và vật nuôi của Tháp Tháp Nhi, từ đó, lực lượng của ông càng hùng hậu hơn.

          Năm 1201 (năm Thái Hoà 泰和 nguyên niên đời Kim Chương Tông 金章宗), Thiết Mộc Chân đánh bại Trát Mộc Hợp. Năm sau, lại diệt hết tàn dư của người Tháp Tháp Nhi. Như vậy, Thiết Mộc Chân đã thống nhất đông bộ Mông Cổ.

          Nhưng phía tây vẫn còn nhiều bộ lạc, trong đó bộ lạc cách gần nhất là bộ Khắc Liệt 克烈 hùng mạnh. Vương hàn của bộ Khắc Liệt là Thoát Oát Lí Lặc vào mùa xuân năm 1202 đã phát động tập kích bất ngờ đối với Thiết Mộc Chân. Trong nhất thời, Thiết Mộc Chân mất phòng thủ, đành dẫn 19 người tháo chạy. Họ lui về phía sau đồng thời đóng trại tại Ban Chu Nê hà 班朱泥河 (ý nghĩa là đầm trạch). Nơi đây không có người, không có lương thực, họ phải uống nước đục để đỡ khát, bắn ngựa hoang làm thức ăn. Thời gian này là những ngày gian khổ nhất trong quá trình thống nhất toàn Mông Cổ của Thiết Mộc Chân. Cho nên, sau khi ông hoàn thành đại nghiệp thống nhất, đã phong những người “đồng ẩm Ban Chu Nê hà thuỷ” 同饮班朱泥河水 (cùng uống nước Ban Chu Nê hà) làm công thần.

          Về sau Thiết Mộc Chân lui đến phía đông hồ Bối Gia Nhĩ 贝加尔, một mặt hướng đến vương hàn cầu hoà, mặt khác lợi dụng thời cơ tạm nghỉ, thu thập đám quân đã tán loạn. Đến mùa thu năm đó, thực lực quân sự của ông đã khôi phục trở lại, liền ngầm phái binh bao vây nơi đóng quân của Vương Hàn (Hãn) 王汗, đột nhiên phát động tấn công. Sau khi trải qua 3 ngày 3 đêm kịch chiến, Thiết Mộc Chân chiếm lĩnh được “kim trướng” 金帐 (1) của Vương Hàn, Vương Hàn sau khi tháo chạy đến bên bờ Ngạc Nhĩ Hồn hà 鄂尔浑河, đã bị người Nãi Man 乃蛮 giết chết.

          Sau khi tiêu diệt bộ Khắc Liệt, mùa hè năm 1204 (năm Thái Hoà thứ 4 đời Kim Chương Tông), Thiết Mộc Chân đích thân thống lĩnh đại quân xuất chinh Nãi Man,  giết chết Tháp Dương Hàn (Hãn) 塔阳汗, thủ lĩnh của bộ Nãi Man. Từ đó, uy danh của Thiết Mộc Chấn chấn động cao nguyên Mông Cổ, các bộ lạc khác không dám tranh phong cùng ông ta nữa. Người Miệt Khất Nhi nghe tiếng gió đã hoảng sợ, thủ lĩnh của họ bỏ chạy đến một nơi rất xa; bộ Uông Cổ 汪古 chủ động đến quy phụ; Trát Mộc Hợp trốn chạy khắp nơi bị bộ hạ của ông bắt trói lại giao cho Thiết Mộc Chân, cuối cùng bị Thiết Mộc Chân xử tử. Như vậy, Thiết Mộc Chân đã hoàn thành đại nghiệp thống nhất toàn Mông Cổ.

          Năm 1206 (năm Thái Hoà thứ 6 đời Kim Chương Tông), Thiết Mộc Chân 44 tuổi được toàn bộ chủ nô Mông Cổ cử làm Thành Cát Tư Hàn (Hãn) 成吉思 (2). “Thành Cát Tư Hàn (Hãn)” tiếng Mông Cổ có nghĩa là “cường đại” 强大 (lớn mạnh). Thành Cát Tư Hàn (Hãn) trở thành Đại Hàn (Hãn) của toàn Mông Cổ, đánh dấu lịch sử tộc Mông Cổ tiến vào một giai đoạn mới, kết thúc cục diện tàn sát lẫn nhau giữa các bộ của toàn Mông Cổ từ nhiều năm qua; tại phía đông khởi đầu từ thảo nguyên Hô Luân Bối Nhĩ 呼伦贝尔, phía tây đến khu vực rộng lớn của A Nhĩ Thái sơn 阿尔泰山, các bộ lạc nói ngôn ngữ khác nhau và có trình độ văn hoá khác nhau, dần hình thành nên một tộc Mông Cổ cần lao.

          Sau khi Thành Cát Tư Hàn (Hãn) thống nhất toàn Mông Cổ, đã kiến lập một chính quyền Mông Cổ đầu tiên – nước Mông Cổ.

Chú của người dịch

1- Kim trướng 金帐: tức Kim trướng Hàn (Hãn) quốc 金帐汗国, còn gọi là Khâm sát Hàn (Hãn) quốc 钦察汗国, Đại trướng Hàn (Hãn) quốc, 大帐汗国 là một trong Mông Cổ tứ đại Hàn (Hãn) quốc.

2- Thành Cát Tư Hàn (Hãn) 成吉思汗:

- Về chữ :

Trong Khang Hi tự điển 康熙字典có các bính âm như sau: hàn (âm Hán Việt:  hãn), hán (âm Hán Việt: hàn), gān (âm Hán Việt: can).

- Bính âm hán (âm Hán Việt là hàn):

          “Đường vận”: hồ an thiết.

          “Tập vận”, “Vận hội”, “Chính vận”: hà can thiết. Tịnh âm (hàn)

          Khắc Hàn, tù trưởng chi xưng. Độc nhược 克韓 (khắc hàn).

          Hựu Bàn Hàn, Hán huyện danh. Độc Bàn Hàn.

          唐韻”: 胡安切.

     集韻”, “韻會”, “正韻”: 河干切. 並音寒.

     可汗, 酋長之稱. 讀若克韓.

     又番汗, 漢縣名. 音盤寒.

          “Đường vận” phiên thiết là “hồ an”.

          “Tập vận”, “Vận hội”, “Chính vận” phiên thiết là “hà can”. Đều có âm đọc là (hàn).

          可汗 “Khắc Hàn là từ gọi tù trưởng. Đọc như 克韓 “khắc hàn”.”

          Lại có Bàn Hàn, tên một huyện đời Hán. Đọc là “Bàn Hàn”.

          (“Khang Hi tự điển”, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, 2003, trang 553)

Trong Hán Việt tự điển của Thiều Chửu có âm “hãn” và “hàn”. Với âm “hàn” ghi rằng:

          Một âm là hàn, vua rợ Đột quyết gọi là khả hàn 可汗.

          (Ở chữ trang 73 thì có âm đọc là khắc hàn, ở đây lại là khả hàn. Chắc có lẽ tác giả nhầm – ND)

          (Nhà xuất bản Hồng Đức, 2015, trang 299)

          Trong Từ điển Hán Việt văn ngôn dẫn chứng của Nguyễn Tôn Nhan, chữ cũng có 2 âm đọc: “hãn” và  “hàn”. Với âm “hàn” ghi rằng:

          Vua Hung Nô được gọi là Khả Hàn 可汗 (cũng quen đọc là Hãn)

          Ở chữ ghi rằng:

          Tên gọi vua Tây Vực (Khả Hãn 可汗, đọc như Khắc Hàn)

          (Nhà xuất bản TP Hồ chí Minh, 2002, trang 736, trang 195)

          Như vậy chữ với nghĩa là tù trưởng đọc là “Hàn”, ta quen đọc là “Hãn”. 可汗 đọc là “Khắc Hàn”, ta quen đọc là “Khả Hãn”.

     成吉思汗  theo Trung văn, bính âm là  chéng jí sī hán, như vậy tên nhân vật đọc là Thành Cát Tư Hàn, nhưng ta quen đọc là Thành Cát Tư Hãn.

https://zhidao.baidu.com/question/2056870323719631107.html

http://www.cidianwang.com/cd/c/chengjisihan114927.htm 

                                                                 Huỳnh Chương Hưng

                                                                 Quy Nhơn 22/9/2020

TRUNG HOA THƯỢNG HẠ NGŨ THIÊN NIÊN

中华上下五千年

Chủ biên: Lí Tinh 李晶

Nam Kinh đại học xuất bản xã, 2007

Previous Post Next Post