TẾ TỰ CHƯNG THƯỜNG
CHỈ CÓ THỂ XEM CHỨ KHÔNG THỂ ĐÙA
Tế tự
là một bộ phận của lễ điển Hoa Hạ, là bộ phận chủ yếu trong lễ nghi của Nho
giáo, lễ có ngũ kinh, không có gì quan trọng bằng tế để thờ thần cầu phúc.
Khi
nhân loại cho rằng muôn vật đều có linh hồn, linh hồn của con người có thể
nương vào vạn vật tự nhiên, thì hoạt động tế tự nguyên thuỷ đã bắt đầu. Người
Sơn Đính Động 山顶洞 vãn
kì thời đại đồ đá cũ họ đã biết bôi lên thi thể phấn đỏ khoáng thạch tượng
trưng cho huyết dịch, cho rằng làm như vậy có thể khiến người chết sống lại.
Từ khát
vọng giản đơn nhất đối với sinh mệnh đến sự phát triển sau này đối với việc cầu
khấn thần linh, cầu khấn được bảo vệ giúp đỡ, thế là đối tượng tế tự không ngừng
gia tăng thêm, ngay cả Tiêu Hà 萧何, Hàn Dũ 韩愈, Nhạc Phi 岳飞 cũng đều đảm nhiệm
vai trò Thổ địa gia 土地爷. Thời Tam Quốc, lại sản sinh Thành Hoàng 城隍 bảo
vệ thành thị, sau đó dần khuếch đại phổ cập, trở thành Thần thương nghiệp, công
nghiệp. Thành Hoàng chủ âm, nắm giữ sổ sách cõi âm, quan sát thiện ác, ghét cái
ác như kẻ thù, tra quỷ gọi hồn. Thế là trên đất và dưới đất đều có thần cai quản.
Đối tượng
của tế tự nhiều, khí vật để tế tự tất nhiên cũng nhiều. Cầu khấn thần khác nhau
phải dùng những khí vật khác nhau. Chúng ta hiện nay chỉ biết một số khí vật tế
tự của triều Hán tương đối thường thấy.
Thần tiên
cũng cần phải ăn, tế tự dùng trâu dê heo.
Lời tục
có câu “Dân dĩ thực vi thiên” 民以食为天, trong mắt lão
bách tính thực vật 食物 là
quan trọng nhất, cho nên họ cho rằng cầu thần tiên phù hộ phải đem những thứ
ngon nhất của mình dâng lên. Thế là tế tự lúc ban đầu lấy việc dâng thức ăn làm
phương thức chủ yếu. Trong Lễ kí – Lễ vận
礼记 - 礼运 có
nói:
Phù lễ chi sơ, thuỷ chư ẩm thực. Kì phần tất
bách đồn, oa tôn nhi bầu ẩm, khoái phù nhi thổ cổ, do nhược khả dĩ trí kì kính
vu quỷ thần.
夫礼之初, 始诸饮食. 其燔悉捭豚, 污尊而抔饮, 蕢桴而土鼓, 犹若可以致其敬于鬼神.
(Phàm
ban đầu của lễ, là bắt đầu từ hoạt động ẩm thực. Thời nguyên thuỷ, người ta đem
lúa tắc đặt trên đá tảng, dùng lửa đốt chín, đem heo con nướng trên lửa, đào hố
nhỏ dưới đất đựng nước xem như chén, dùng hai tay vốc nước dâng lên, vò đất sét
nặn thành dùi trống, lấy khuôn đất sét bịt da làm trống, tuy đơn giản thô lậu
nhưng hết sức kính cẩn đối với quỷ thần)
Ý nói lế
tế tự khởi nguồn từ việc dâng hiến thức ăn lên quỷ thần, chỉ cần thiêu đốt
(dùng lửa thiêu) lúa tắc đồng thời dùng thịt heo dâng lên thần, đào đất lấy lỗ
làm bình, dùng tay vốc nước dâng lên quỷ thần, gõ trống đất làm nhạc, thì có thể
đem lời nguyện cầu cùng thành ý truyền đạt đến quỷ thần.
Tại sao
nhất định phải dùng thịt? Thần tiên không thích ăn chay sao? Chúng ta cảm thấy
thần tiên thích hay không thích ăn chay chẳng có liên quan gì. Mà lại là có
liên quan đến nhân loại chúng ta. Bạn thử nghĩ xem, đương thời muốn ăn thịt
không như chúng ta xách giỏ ra chợ mua về, thời kì đó muốn ăn thịt phải tự mình
đi săn bắt, lưới vây, tường chắn đủ các loại, lao động trí óc lao động chân tay
dường như tập trung trên người. Như vậy thịt mà có được đương nhiên là rất quý.
Ngay cả cuộc sống lí tưởng mà Mạnh Tử 孟子nghĩ đến là người
già 70 tuổi trở lên được có thịt để ăn là tiêu chuẩn quan trọng. Cho nên thịt
trở thành tế phẩm chủ yếu để dâng lên thần
linh.
Được
thôi! Thế thì lấy thỏ rừng săn được dâng tế. Dừng lại! Tế tự là đại sự, sao có
thể tuỳ tiện lấy miếng thịt cho xong việc. Thời cổ động vật lấy thịt dùng trong
tế tự đều gọi một cái tên nghe sáng láng “hi sinh” 牺牲,
chỉ các sinh súc mã 马 (ngựa), ngưu 牛 (trâu),
dương 羊 (dê), kê 鸡 (gà), khuyển 犬 (chó),
thỉ 豕 (heo), ngày nay chúng ta gọi đó là “lục súc” 六畜. Trong lục súc thường dùng nhất là tam sinh trâu, dê,
heo. Cá và thỏ rừng cũng dùng trong tế tự, nhưng không thuộc nhóm “hi sinh”.
Đương nhiên cũng có loại tế phẩm tàn nhẫn mang khẩu vị nặng đó là nhân 人 (người).
Tế tự cũng dùng “nhân” nhưng bản thân “nhân” không gọi là “hi sinh”, trong sách
cổ có nói “dụng nhân” 用人, mà không nói “nhân
sinh” 人牲.
Đến triều
Hán, thịt dùng trong tế tự vẫn tồn tại, nhưng yêu cầu càng nhiểu hơn. Tế tự
cũng phân làm tôn ti. Tế khí của thiên tử gọi là “cửu đỉnh bát quỹ” 九鼎八簋 – ngưu 牛, dương 羊, thỉ 豕, ngư 鱼, lạp 腊, trường vị 肠胃, phu 肤, tiên ngư 鲜鱼, tiên lạp 鲜腊 đựng trong cửu đỉnh được gọi là “Đại lao” 大牢, còn tế khí của quần thần chỉ có “thất đỉnh lục quỹ” 七鼎六簋, tiếp đó theo thứ tự xuống dần mà giảm bớt.
Ngọc không
chỉ dùng làm vật trang sức trên đầu
Nói đến
việc dùng ngọc làm dụng phẩm tế tự. trước tiên nhấn mạnh một chút, không phải tất
cả các loại ngọc có được đều có thể dùng trong tế tự, chỉ có những chế phẩm ngọc
như bích 璧, tông 琮, khuê 圭, chương 璋, hoàng 璜, hổ 琥 được gọi là “lục khí” 六器
mới có thể dùng trong tế tự. Trong mắt người xưa, ngọc là tín vật câu thông giữa
người với thần. Quan điểm này kì thực đã lưu truyền lại, chẳng phải chúng ta
ngày nay không đều nói ngọc có linh tính
sao? Thậm chí về linh tính của ngọc, còn có truyền thuyết: Một thái tử long
vương nào đó yêu một cô gái chốn nhân gian, yêu đến mức tình thâm ý thiết, chết
đi sống lại. Nhưng thái tử long vương biết rất rõ đạo lí nhân và thần không thể sống chung, nếu không sẽ hại người hại mình.
Thế là chỉ có thể bỏ đi tình cảm đó, nhưng trong lòng trước sau vẫn bỏ không được
cô gái. Thái tử long vương cũng si tình, biến mình thành một chiếc vòng ngọc
xanh biếc đeo trên tay cô gái, hi vọng có thể bảo vệ cô gái một đời bình an.
Chúng
ta tiếp tục nói về “lục khí”, Trước tiên nói về “bích” 璧rất
đặc thù. Chúng ta đều không xa lạ câu chuyện “Hoàn bích quy Triệu” 完璧归赵, nhưng trừ bản thân câu chuyện ra, còn cần phải biết
“bích” không phải là loại ngọc thông thường, ngọc dùng để tế nhật, nguyêt, tinh
thần mới được gọi là “bích”. Nhìn chung bích có dạng tròn dẹt, giữa có lỗ. lớn
cỡ loại “bình an khấu” 平安扣 (1) hiện
nay. 5 loại ngọc khí kia công dụng tương đối rộng, tế tự, tang táng đều có thể
dùng được.
Ngọc là
tế vật thường dùng nhất ngoài thực vật (食物),
cũng là phương thức quan trọng nhất, trong Chu lễ 周礼 có câu:
Dĩ ngọc tác lục khí, dĩ lễ thiên địa tứ
phương.
以玉作六器以礼天地四方
(Lấy ngọc làm lục khí, để tế thiên địa tứ phương)
Đời
Hán, quân tử có câu nói “ngọc bất khứ thân” 玉不去身(ngọc không
rời thân), dùng ngọc làm phù tiết, ấn tín, rất quý trọng.
Chế độ lễ nghi của ngọc lúc bấy giờ đã có được sự phát triển mà trước đó chưa từng
có! Mọi người xem ngọc là danh từ thay cho “mĩ hảo” 美好,
thậm chí trong tưởng tượng nơi mà thiên thần cư trú cũng xưng là “ngọc đài” 玉台. ..... (còn tiếp)
Chú của người
dịch
1- Bình an khấu
平安扣: Cũng gọi “La Hán nhãn” 罗汉眼 là miếng ngọc nhỏ tròn và dẹt, có lỗ ở giữa giống đồng
tiền cổ, dùng để đeo trước ngực, theo truyền thuyết nó có công năng trừ tà, bảo
vệ bản thân ra vào đi đứng đều được bình an. Có lẽ do bề mặt của ngọc láng bóng
không chạm trỗ gì, ngoại hình lớn nhỏ cỡ nút áo (khấu tử) nên có tên gọi như thế.
Còn tên là “La Hán nhãn” là khởi đầu từ những năm Khang Hi. Đương thời chính trị
triều Thanh toàn thịnh, quốc khố phong doanh, thực lực lớn mạnh, cho nên đã
phát hành một loại hoá tệ đặc biệt, đó là “La Hán tiền” 罗汉钱. “Bình an khấu” hộ thân lúc bấy giờ rất giống La Hán
tiền, dẫn đến việc không phân biệt rõ, cho nên để biểu thị sự khu biệt, mọi người
gọi “bình an khấu là “La Hán nhãn”.
Phụ lục hình trên mạng
Bình an khấu
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 26/7/2020
Nguồn
HOẠT TẠI ĐẠI HÁN
活在大汉
Tác giả: Kì Mạc Hân 祁莫昕
Thành Đô: Tứ Xuyên nhân dân xuất bản xã, 2018
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật