ĐƯA NGƯỜI VIỄN KHÁCH TÌM VÀO VẤN DANH
(624)
Vấn
danh: là một trong sáu lễ giá thú
truyền thống của Trung Quốc, gồm: nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp trưng, thỉnh
kì và thân nghinh.
Sáu lễ gồm:
Nạp
thái 纳采: tục gọi “nghị hôn” 议婚 hoặc “thuyết môi” 说媒,
nhờ người làm mai đến nhà gái để bàn hôn sự. Khi người làm mai đến nhà gái, thường
mang theo một con chim nhạn sống làm lễ vật, tượng trưng cho sự trung trinh bất
nhị.
Vấn
danh 问名: tục xưng “hợp bát tự” 合八字. Trước tiên nhà
trai đặt canh thiếp bên trên có ghi giờ, ngày, tháng, năm sinh của người nam
lên án thờ tổ tiên trong nhà, qua mấy ngày sau, để ý trong nhà đều bình an vô sự
mới đưa canh thiếp sang nhà gái. Nhà gái sau khi nhận đặt trên bàn thờ thần phật,
sớm tối mỗi ngày thắp hương cúng bái. Qua mấy ngày sau, nếu như nhà trai và nhà
gái xảy ra việc như trộm cắp, vật phẩm bị tổn hại, hoặc có người đau ốm thì hôn
sự bất thành.
Nạp
cát 纳吉: cũng gọi là “tiểu định” 小定 hoặc “văn định” 文定 cũng chính là
đính hôn. Sau vấn danh bói được điềm tốt, nhà trai nhờ người làm mai mang tặng lễ
vật cho nhà gái, và thông báo quyết định hôn sự, đồng thời nhà trai chọn ngày tốt
đến nhà gái tặng vòng vàng cho cô dâu.
Nạp
trưng 纳徵: tục gọi là “đại sính” 大聘 hoặc “hoàn sính” 完聘,
nhà trai chọn ngày tốt để nhà gái để cử hành đại lễ đính hôn. Nạp trưng thông
thường tiến hành trước hôn lễ 10 ngày hoặc 1 tháng. Ngoài chuẩn bị sính kim ra,
còn có 6 kiện hoặc 12 kiện lễ, danh xưng sính lễ phải mang hàm ý cát tường, số
lượng phải là số chẵn, mang ý nghĩa thành đôi thành cặp.
Thỉnh
kì 请期: tục xưng “trạch nhật” 择日 do nhà trai chọn ngày đại hỉ, xin sự đồng ý của nhà gái.
Thân
nghinh 亲迎: chính thức cử hành hôn lễ. Bát tự của cô dâu chú rể viết trên giấy đỏ
nhờ thầy bói chọn ngày Hoàng đạo, sau khi người làm mai trình sự đồng ý của hai
bên, sẽ chính thức cử hành nghi thức thân nghinh.
Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
(“Truyện Kiều” 623 – 624)
Định ngày nạp
thái vu quy
Tiền lưng đã
có, việc gì chẳng xong
(“Truyện Kiều” 651 – 652)
Đủ điều nạp
thái vu quy
Đã khi chung
chạ, lại khi đứng ngồi
(“Truyện Kiều” 957 – 958)
Vấn danh: Tiết đầu tiên trong hôn lễ, người nhà trai đem lễ vật
đến hỏi tên tuổi người con gái.
Nạp thái vu
quy: là lễ dẫn của, vu quy là lễ rước
dâu.
(Đào Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội – 1989)
Trong “Kim Vân Kiều” (Đoạn trường tân thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích,
ghi rằng:
Nghi lễ: Hôn hữu lục lễ, viết nạp thái, vấn
danh, nạp cát, nạp chưng, thỉnh kỳ, thân nghênh.
儀禮: 婚有六禮曰納采問名納吉納徵請期親迎
(Sách
Nghi lễ: Cưới vợ có sáu lễ là: nói chạm mặt, hỏi tên tuổi, bói được ngày, nộp lụa
và của, xin ngày cưới, ngày đón dâu).
(Sài Gòn: nxb Sống Mới, 1960)
Xét:Trong “Kim Vân
Kiều” (Đoạn trường tân thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích, câu 652 là:
Tiền lưng đã SẴN, việc gì chẳng xong
Trong “Tư liệu Truyện Kiều - Bản
Duy Minh Thị 1872” do GS Nguyễn Tài Cẩn phiên Nôm, câu 651 - 652 là:
Định THỜI nạp thái vu quy
Tiền lưng đã THẤY, việc gì chẳng xong
(Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002)
Huỳnh Chương Hưng
Quy
Nhơn 09/5/2020
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật