Dịch thuật: Hiển Lăng triều Minh

HIỂN LĂNG TRIỀU MINH

          Hiển Lăng 显陵 triều Minh tục xưng là Hoàng Lăng 皇陵, toạ lạc tại núi Thuần Đức 纯德 cách thành phố Chung Tường 钟祥 tỉnh Hồ Bắc 湖北 7,5km, là mộ hợp táng phụ thân Duệ Tông Chu Hựu Nguyên 睿宗朱佑杬 của Minh Thế Tông Chu Hậu Thông 明世宗朱厚熜 và mẫu thân Chương Thánh Hoàng Thái Hậu Tưởng Thị 章圣皇太后蒋氏.
          Minh Duệ Tông Chu Hựu Nguyên 明睿宗朱佑杬 (1476 – 1519), là con thứ 4 của Hiến Tông 宪宗, mẫu thân là Thiệu quý phi 邵贵妃 (tức Hiếu Huệ Hoàng Thái Hậu 孝惠皇太后). Năm 1487 được phong làm Hưng Vương 兴王, năm 1491 xây phủ đệ ở Đức An 德安, sau đổi là An Lục 安陆 (thành phố Chung Tường钟祥 Hồ Bắc湖北). Trong Minh sử 明史 nói rằng:
Thị thi thư, tuyệt trân ngoạn, bất súc nữ nhạc
嗜诗书, 绝珍玩, 不畜女乐
(Ham thích thi thư, dứt bỏ trân ngoạn, không nuôi dưỡng nữ nhạc)
          Năm 1494, ông đến đất phong An Lục 安陆 tựu phiên. Tháng 6 năm 1519 bị bệnh và qua đời, hưởng niên 44 tuổi. Tháng 4 năm sau, được táng tại núi Tùng Lâm 松林 ở An Lục安陆(sau đổi là núi Thuần Đức纯德)
          Tháng 3 năm 1521, Vũ Tông Chu Hậu Chiếu 武宗朱厚照 bệnh mất. Hậu Chiếu không có con, theo tổ huấn “huynh chung đệ cập” 兄终弟及 (anh mất sẽ đến em), em trai họ là Chu Hậu Thông 朱厚熜 thừa tập hoàng vị, đó là Thế Tông 世宗, lấy niên hiệu là Gia Tĩnh 嘉靖.
          Sau khi Thế Tông 世宗 lên ngôi, chuẩn bị lập phụ thân của mình làm hoàng khảo, nhiều đại thần ra sức can gián đòi lập Hiếu Tông 孝宗 làm hoàng khảo. Thế Tông cả giận, cho đánh trượng đến chết 18 đại thần, kì dư luận tội cho giam vào ngục, biếm trích, đuổi về, lấy lại bổng lộc. Tháng 9 năm 1524, truy tôn phụ thân làm “Hoàng Khảo Cung Mục Hiến Hoàng Đế” 皇考恭穆献皇帝, và xưng Hiếu Tông là “Hoàng Bá Khảo” 皇伯考. Từ đó, chi hệ hoàng gia biến thành chính thống. Sự kiện này trong sử xưng là vụ tranh chấp “đại lễ nghị” 大礼仪议. Tháng 9 năm 1538, lại tôn Hựu Nguyên 佑杬 làm Duệ Tông 睿宗, đưa vào thờ ở Thái miếu 太庙, đồng thời đổi gọi tên lăng là Hiển Lăng 显陵.
          Hiển Lăng bắt đầu xây dựng vào năm 1519, hoàn thành năm 1559 (1), chiếm diện tích 183,13 hecta. Quy mô to lớn, bố cục chặt chẽ, hình chế đặc biệt, nghệ thuật tinh xảo là lăng mộ đơn thể lớn nhất trong số đế lăng đời Minh. Viên lăng do quần thể kiến trúc to lớn tổ thành, chu vi la thành ngoài dài 3.600m, thần đạo dài 1360m. Bắt đầu từ bia “há mã” 下马 do Nghiêm Tung 严嵩viết, từ nam lên bắc, kiến trúc chủ yếu theo thứ tự lần lượt là tân Hồng môn 新红门, cựu Hồng môn 旧红门, ngự bi đình 御碑亭, 1 cặp vọng trụ 望柱, thạch tượng sinh 石象生 (sư tử, giải trãi, lạc đà, voi, kì lân, ngựa, văn thần võ tướng) tổng cộng là 12 cặp, cửu khúc ngự hà, cầu đá Hán bạch ngọc, Lăng Ân môn 裬恩门, phương thành 方城, tiền bảo thành 前宝城, hậu bảo thành 后宝城. Hiển Lăng có kết cấu kiến trúc lăng tẩm “nhất lăng lưỡng trủng” 一陵两冢 (2), có dạng giống hình số 8, do “dao đài” 瑶台 (3) nối liền. phía nam dao đài là “tiền bảo thành”, địa cung là cựu thất của mộ Hưng Hiến Vương. Hậu bảo thành cao 5,5m, trực kính 103m, dưới bảo đính là địa cung mới của Duệ Tông Chu Hựu Nguyên và Chương Thánh Hoàng Thái Hậu Tưởng Thị. Duệ Tông Chu Hựu Nguyên, lúc sinh tiền chưa từng làm hoàng đế, sau khi mất lại có được hai “trú trạch” 住宅 (nhà ở) mang tính vĩnh cửu. Hiển Lăng còn 2 Minh Đường trong và ngoài, “ảnh bích” 影壁 (4) hình chữ “bát” , ngự khúc hà hoàn chỉnh, bảo thành hình tròn, và 9 bi đình, đều là loại mà trong 10 lăng trước của đời Minh không có (5), vì thế khắp nơi đều chú ý đến. Năm 1999, Hiển Lăng được xem là lăng tẩm hoàng gia của đời Minh, hồ sơ được đệ trình lên tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hiệp Quốc để xếp vào di sản văn hoá thế giới. (6)
          Lăng viên Hiển Lăng, sông nước vây bọc, núi non trập trùng, rừng tùng vỗ sóng, u tĩnh cổ kính.

Chú của người dịch
1- Một số tư liệu cho rằng Hiển Lăng 显陵 hoàn thành năm 1566.
2- Nhất lăng lưỡng trủng 一陵两冢 : Trủng : là phần mộ đắp cao. “Nhất lăng lưỡng trủng” tức 1 lăng mà có 2 phần mộ. Chu Hựu Nguyên mất năm 1519, Tháng 4 năm sau tức năm 1920 an táng, tiền bảo thành xây theo theo quy chế phiên vương. Về sau, năm 1521, Chu Hậu Thông lên ngôi tức Thế Tông cho tu sửa lại phần mộ xây theo quy chế đế lăng, hậu bảo thành là cung mới, nơi hợp táng phụ thân và mẫu thân của ông, do đó lăng có 2 trủng.
3- Dao đài瑶台: ở đây chỉ cái đài lớn được xây bằng gạch đá, nối liền bảo thành cũ và mới.
4- Ảnh bích影壁: cũng gọi là “chiếu bích” 照壁, thời cổ gọi là “tiêu tường” 萧墙, giống như bình phong có tác dụng ngăn che.
5- Mười lăng của triều Minh có trước Hiển Lăng 显陵là:
Tổ Lăng 祖陵, Hoàng Lăng 皇陵, Hiếu Lăng 孝陵, Trường Lăng , Hiến Lăng 献陵, Cảnh Lăng 景陵, Dụ Lăng 裕陵, Cảnh Thái Lăng 景泰陵, Mậu Lăng 茂陵, Thái Lăng 泰陵.
6- Năm 2000, Hiển Lăng được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới.

                                                                   Huỳnh Chương Hưng
                                                                   Quy Nhơn 13/12/2019

Nguyên tác Trung văn
HIỂN LĂNG
显陵
trong quyển
MINH ĐẠI THẬP BÁT LĂNG
明代十八陵
Tác giả: Hoàng Liêm 黄濂
Đại Liên xuất bản xã, 1999
Previous Post Next Post