Dịch thuật: Quan chế trung ương (kì 1)

QUAN CHẾ TRUNG ƯƠNG
(kì 1)

          Thời Chiến Quốc ở các nước, dưới vị quân chủ lập thêm Tướng (bên văn) và Tướng (bên võ), chia nhau nắm giữ quyền bính văn võ. Triệu Huệ Văn Vương 赵惠文王 lấy Lận Tương Như 蔺相如 làm , lấy Liêm Pha 廉颇 làm , đó là ví dụ mà ai cũng biết. Trong Tuân Tử - Vương bá 荀子 - 王霸 có nói, là “bách quan chi trưởng” 百官之长 (đứng đầu trăm quan), cho nên trong Chiến quốc sách – Tề sách 战国策 - 齐策 nói rằng:
          Vu thị Lương Vương hư thượng vị, dĩ cố Tướng vi Thượng tướng quân, khiển sứ giả hoàng kim thiên cân, xa bách thặng, vãng sính Mạnh Thường Quân.
          于是梁王虚上位, 以故相为上将军, 遣使者黄金千斤, 车百乘, 往聘孟尝君.
(Thế là Lương Vương để trống vị trí Tướng quốc, lấy người nguyên vốn là Tướng quốc làm Thượng tướng quân, sai sứ giả mang ngàn cân vàng, trăm cỗ xe đi mời Mạnh Thường Quân.)
          Ở nước Sở, vị trưởng quan tối cao gọi là Lệnh doãn 令尹, dưới Lệnh doãn là Võ quan Thượng trụ quốc 武官上柱国, quan hiệu có khác với các nước khác.
          Đời Tần, dưới hoàng đế lập Thừa tướng phủ 丞相府, Thái uý phủ 太尉府và Ngự sử đại phu tự 御史大夫寺tổ thành cơ cấu trung ương. Thừa tướng bẩm thừa ý chỉ của hoàng đế giúp trị lí quốc chính; Thái uý nắm giữ quân sự toàn quốc; Ngự sử đại phu là bí thư trưởng của hoàng đế kiêm quản giám sát. Quan vị Thừa tướng cao nhất, tôn xưng là Tướng quốc 相国, thông xưng là Tể tướng 宰相. Đầu đời Hán theo chế độ triều Tần. từ Hán Vũ Đế 汉武帝về sau, địa vị Thừa tướng tuy tôn quý, nhưng quyền lực dần thu nhỏ. Ví dụ như Hoắc Quang 霍光là Đại tư mã Tướng quân lãnh Thượng thư sự, phụ giúp xử lí quốc chính, quyền thế trên cả Thừa tướng. Cuối đời Tây Hán, Thừa tướng đổi gọi là Đại tư đồ 大司徒, Thái uý đổi gọi là Đại tư mã 大司马, Ngự sử đại phu đổi gọi là Đại tư không 大司空 (1), hiệu xưng là Tam công 三公 (cũng xưng là Tam ti 三司), đều là Tể tướng. Nhưng đến thời Đông Hán Quang Vũ Đế 光武帝, “tuy trí Tam công, sự quy đài các” 虽置三公事归台阁 (tuy đặt Tam công, nhưng sự việc quy về đài các)(2), Tam công chỉ xử lí việc công như thường lệ, đài các trở thành Tể tướng phủ trên thực tế.
          Gọi là “đài các”, là chỉ Thượng thư đài 尚书台 của cơ cấu Thượng thư, đời sau dần gọi là Thượng thư sảnh 尚书省 (3), thủ trưởng là Thượng thư lệnh 尚书令, phó chức là Thượng thư bộc xạ 尚书仆射. Nguỵ Văn Đế 魏文帝 nhìn thấy quyền thế của Thượng thư đài thời Đông Hán quá lớn, đã đem Thượng thư đài đổi thành cơ cấu chấp hành ngoại vi, ngoài ra còn thiết lập Trung thư giám 中书监, lệnh làm Trung thư sảnh 中书省của thủ trưởng, tham gia nắm giữ việc cơ mật trung ương. Thời Nam Bắc triều, hoàng đế nhìn thấy quyền thế của Trung thư sảnh ngày càng lớn, lại thiết trí lấy Thị trung 侍中làm Môn hạ sảnh门下省 của thủ trưởng, hạn chế quyền của Trung thư sảnh. Như vậy đã hình thành Thượng thư, Trung thư, Môn hạ, chế độ tam sảnh phân chức của trung ương hoàng triều: Trung thư sảnh nhận ý chỉ, Hạ môn sảnh xét duyệt, Thượng thư sảnh chấp hành (4), thủ trưởng tam sảnh đồng là Tể tướng, cùng nghị bàn quốc chính.
          Thời Đường do vì Đường Thái tông 唐太宗 từng đảm nhậm chức Thượng thư lệnh, nên sau đó chức quan này không trao cho ai, mà lấy Tả Hữu bộc xạ 左右仆射làm Tể tướng. Về sau Đường Cao Tông 唐高宗không cho Tả Hữu bộc xạ tham quyết đại chính. Đường Thái Tông lại cho rằng quan vị của Trung thư lệnh và Thị trung quá cao, nên không khinh suất trao cho, thường dùng chức quan khác gia thêm danh nghĩa “tham nghị triều chính” 参议朝政, “tham nghị đắc thất” 参议得失, “tham tri chính sự” 参知政事 nắm giữ chức Tể tướng. Từ Cao Tông về sau, người chấp hành chức vụ Tể tướng gọi là “Đồng Trung thư Môn hạ tam phẩm” 同中书门下三品, “Đồng Trung thư Môn hạ bình chương sự” 同中书门下平章事, đời Tống gọi tắt là “Đồng bình chương sự” 同平章事, lấy “tham tri chính sự” làm Phó tướng.  
          Trung ương đời Tống là do Trung thư 中书 và Xu mật viện 枢密院chia nhau nắm giữ quyền bính văn võ, hiệu xưng là “nhị phủ”. Xu mật viện giống như Thái uý phủ đời Tần, chánh phó thủ trưởng là Xu mật sứ 枢密使, Phó sứ 副使.
          Từ “Tể tướng” được thấy sớm nhất ở Hàn Phi Tử 韩非子 (5), nhưng chính thức định làm quan hiệu là tại đời Liêu. Cơ cấu trung ương đời Liêu là Bắc, Nam Tể tướng phủ, mỗi phủ thiết đặt Tả, Hữu Tể tướng. Đời Minh phế bỏ Trung thư sảnh, hoàng đế đích thân xử lí quốc chính, lấy quan viên Hàn lâm viện gia hàm Điện các Đại học sĩ 殿阁大学士soạn thảo chiếu dụ. Về sau Đại học sĩ dần tham dự đại chính, trở thành Tể tướng trên thực tế, hiệu xưng Phụ thần 辅臣, đứng đầu Phụ thần có Nguyên phụ 元辅, Thủ phụ 首辅. Triều Thanh theo chế độ triều Minh. Thời Ung Chính 雍正thành lập Quân cơ xứ 军机处, Đại học sĩ không còn chức quyền gì.
          Thời Tần Hán, trưởng quan hành chính trung ương có:
1- Phụng thường 奉常, đầu thời Hán theo cách gọi này, sau đổi gọi là Thái thường 太常, nắm giữ lễ nghi tông miếu.
2- Lang trung lệnh 郎中令, đầu thời Hán theo cách gọi này, sau đổi gọi là Quang lộc huân 光禄勋, quản cung đình thị vệ.
3- Vệ uý 卫尉, đầu thời Hán Cảnh Đế, một dạo đổi gọi là Trung đại phu lệnh 中大夫令, quản cung môn cận vệ quân.
4- Thái bộc 太仆, quản xe ngựa của hoàng đế.
5- Đình uý 廷尉, đời Hán có lúc gọi là Đại lí 大理, là pháp quan tối cao.
6- Điển khách 典客, đầu thời Hán theo cách gọi này, sau gọi là Đại hành lệnh 大行令, Đại hồng lô 大鸿胪, quản lí sự việc dân tộc thiểu số đến triều đình.
7- Tông chính 宗正, quản lí sự việc tông tộc.
8- Trị túc nội sử 治粟内史, đầu thời Hán theo cách gọi này, sau gọi là Đại nông lệnh 大农令, Đại tư nông 大司农, quản lí tô thuế phú dịch.
9- Thiếu phủ 少府, quản tổng vụ của cung đình. 
          Các quan nói trên về sau gọi là “Cửu khanh” 九卿. Trong Cửu khanh, Đình uý, Điển khách và Trị túc nội sử là chính vụ (quốc chính), 6 khanh còn lại là sự vụ của riêng hoàng đế. (còn tiếp)

Chú của nguyên tác
1- Đại tư không 大司空là chức quan chủ về thuỷ thổ, khác với chức Ngự sử đại phu 御史大夫trước đó.
2- Xem Hậu Hán thư – Trọng Trường Thống truyện 后汉书 - 仲长统传.
3- Triều Tấn gọi là Thượng thư đô sảnh 尚书都省, triều Lưu Tống gọi là Thượng thư tự 尚书寺, một tên khác là Thượng thư sảnh 尚书省.
4- Đời Tuỳ tránh dùng chữ “trung” , đổi Trung thư sảnh 中书省 thành Nội sử sảnh 内史省, đổi Thị trung 侍中thành Nạp ngôn 纳言. Thời Đường Cao Tông, Võ Hậu và Huyền Tông, danh xưng tam sảnh từng có mấy lần thay đổi: Thượng thư sảnh 尚书省gọi là Trung đài 中台, Văn Xương đài 文昌台; Trung thư sảnh 中书省 gọi là Tây đài 西台, Phụng các 凤阁, Tử Vi 紫微; Môn hạ sảnh 门下省gọi là Đông đài 东台, Loan đài 鸾台, Hoàng môn 黄门.
5- Hàn Phi Tử - Hiển học 韩非子 - 显学 :
          Cố minh chủ chi lại, Tể tướng tất khởi vu châu bộ, mãnh tướng tất phát vu tốt ngũ.
          故明主之吏, 宰相必起于州部, 猛将必发于卒伍.
          (Cho nên với quan lại của minh chủ, thì Tể tướng tất nổi lên từ châu bộ, mãnh tướng xuất phát từ quân đội.)
          Và, trước đây văn nhân thường dùng “Tể phụ” 宰辅, “Tể hành” 宰衡 để gọi Tể tướng, nhưng đều là quan hiệu không chính thức.

                                                               Huỳnh Chương Hưng
                                                               Quy Nhơn 20/9/2018

Nguồn
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VĂN HOÁ THƯỜNG THỨC
中国古代文化常识
Chủ biên: Vương Lực 王力
Bắc Kinh: Trung Quốc Nhân dân Đại học xuất bản xã, 2012
Previous Post Next Post