Dịch thuật: Ngũ cốc phong đăng đại hữu niên (tiếp theo)

NGŨ CỐC PHONG ĐĂNG ĐẠI HỮU NIÊN
BÀN VỀ CHỮ “NIÊN”
(tiếp theo)

          Năm đã định danh xưng, còn một vấn đề nữa đó là việc ghi năm. Truyền thống Trung Quốc có phương pháp lấy can chi ghi năm cùng với lấy đế hiệu ghi năm. Ví dụ năm 1911, gọi là năm “Tân Hợi” 辛亥, đây chính là lấy can chi ghi năm, lấy thiên can “tân” kết hợp với địa chi “hợi” mà tổ thành. Thiên can và địa chi theo thứ tự phối hợp lại, 60 năm là 1 giáp. Về cách lấy đế hiệu ghi năm, bắt đầu từ Hán Vũ Đế 汉武帝 năm Kiến Nguyên 建元 thứ nhất, tức năm 140 trước công nguyên, đến năm Tuyên Thống 宣统 thứ 3 đời Thanh mới kết thúc, trước sau trải qua lịch sử 2051 năm. Trong đó có hơn 600 niên hiệu. Những niên hiệu này đa phần đều chọn những tự nhãn tường thuỵ cát khánh. Có nhiều niên hiệu thuộc kí sự, như: “Kiến Nguyên” 建元 của Hán Vũ Đế, “Sơ Nguyên” 初元 của Hán Nguyên Đế, “Kiến Sơ” 建初của Vương Mãng, những niên hiệu này là một loại. Vũ Đế bắt được con thú 1 sừng cải nguyên là “Nguyên Thú” 元狩, được bảo đỉnh cải nguyên là “Nguyên Đỉnh” 元鼎, đến Thái sơn 泰山phong thiện, định niên hiệu là “Nguyên Phong” 元封. Hán Tuyên Đế nói là thấy phụng hoàng, định niên hiệu là “Ngũ Phụng” 五凤, nghe nói trời giáng cam lồ, đổi niên hiệu là “Cam Lộ” 甘露, những niên hiệu này là một loại. Còn có không ít niên hiệu mang tính cầu mong, như “Chính Hoà” 政和thời Bắc Tống, hi vọng chính thông nhân hoà; “Thiệu Hưng” 绍兴thời Nam Tống, hi vọng quốc vận tái hưng; thời Hán Tuyên Đế vì địa chấn đã cải nguyên là “Địa Tiết” 地节, hi vọng đất có được sự tiết chế, những niên hiệu này là một loại. Cũng có không ít những niên hiệu tuyên dương thiên mệnh, như Thanh Thái Tổ dùng “Thiên Mệnh” 天命làm niên hiệu, ngoài ra còn có “Thiên Thuận” 天顺, “Thiên Bảo” 天宝, “Thiên An” 天安, “Thiên Hưng” 天兴, “Thiên Định” 天定 v.v... Hãy còn rất nhiều loại khác, như niên hiệu “Cánh Ninh” 竟宁của Hán Nguyên Đế là có liên quan đến sự kiện Thiền vu Hô Hàn Tà 呼韩邪 tự nguyện làm rể người Hán, nguyện bảo vệ biên cảnh bình an (1). Niên hiệu “Đồng Trị” 同治đời Thanh mang ý nghĩa hai hoàng thái hậu Từ An 慈安, Từ Hi 慈禧 cùng buông rèm trị chính. Trong lịch sử, niên hiệu “Kiến Hưng” 建兴được dùng rất nhiều, được 11 vị đế vương dùng qua (2). Còn người mà thay đổi niên hiệu nhiều nhất trong lịch sử là Võ Tắc Thiên 武则天, tổng cộng bà đã cải nguyên 17 lần. Như thân thể không được khoẻ, cải nguyên là “Thái Dự” 泰豫, “Thiên Sách Vạn Tuế” 天册万岁, bệnh khỏi lại cải nguyên là “Cửu Thị” 久视. Khoảng thời Minh Thanh, trừ Minh Anh Tông dùng 2 niên hiệu, các vị hoàng đế khác đều theo chế độ “nhất đế nhất nguyên”. Nhân đó người ta cũng quen dùng niên hiệu để xưng hô vị hoàng đế đó. Như với Ái Tân Giác La Huyền Diệp 爱新觉罗玄烨 thì xưng là “Khang Hi” 康熙, với Ái Tân Giác La Hoằng Lịch 爱新觉罗弘历thì xưng là “Càn Long” 乾隆.
          Sau khi nước Trung Hoa mới thành lập dùng công nguyên để ghi năm, đây là lịch pháp thông dụng ở đa số các nước trên thế giới. Công nguyên còn được gọi là kỉ nguyên Cơ Đốc, lấy năm giáng sinh của Jesus làm công nguyên nguyên niên. Trước mốc đó gọi là “công nguyên tiền” (trước công nguyên), còn sau mốc đó thì gọi là “công nguyên”. Kỉ nguyên Cơ Đốc này, về sau Gregory theo đó tu đính thành lịch Gregory. Gregory là vị Giáo hoàng La Mã thế kỉ 16, đã tu đính qua những chỗ sai nhầm của lịch pháp trước đó, đặt ra cách tính nhuần,  cho nên công lịch cũng được gọi là lịch Gregory. Lịch này lấy nguyên đán dương lịch làm khởi đầu cho một năm. Nông lịch Trung Quốc lấy Xuân tiết làm khởi đầu cho một năm. Xuân tiết hiện đã thành một lễ tiết truyền thống của Trung Quốc. (hết)

Chú của nguyên tác
1- Trung Quốc văn hoá tri thức 中国文化知识trang 126, Bắc Kinh Ngữ ngôn học viện xuất bản xã.
2- Chu Thiệu Kinh 周绍京Kỉ niên thú đàm 纪年趣谈, Văn hối báo 文汇报, ngày 23 tháng 3 năm 1982

                                                          Huỳnh Chương Hưng
                                                          Quy Nhơn 28/6/2018

Nguyên tác Trung văn
NGŨ CỐC PHONG ĐĂNG ĐẠI HỮU NIÊN
ĐÀM “NIÊN”
五谷丰登大有年
  “
Trong quyển
HÁN TỰ THẬP THÚ
汉字拾趣
Tác giả: KỶ ĐỨC DỤ (纪德裕)
Phúc Đán Đại học xuất bản xã, 1998
Previous Post Next Post