Dịch thuật: Cửu Thiên Tư Mạng Táo Quân Thánh kỉ

CỬU THIÊN TƯ MẠNG TÁO QUÂN THÁNH KỈ

          Tư Mạng Táo Quân 司命灶君, còn được gọi là Tư Mạng Chân Quân 司命真君, Tư Mạng Táo Thần 司命灶神, Cửu Thiên Hộ Trạch Thiên Tôn 九天護宅天尊, hoặc Cửu Nguyên Đông Trù yên Chủ 九元東廚煙主, Cửu Thiên Đông Trù Tư Mạng Định Phúc Táo Quân 九元東廚司命定福灶君, Táo Vương Công 灶王公, Táo Quân Công 灶君公, Táo Quân Gia 灶君爺, Táo Lão Gia 灶老爺, thông thường gọi tắt là Táo Thần, Táo Quân, Táo Vương Gia. Đạo giáo xưng Táo Quân là Côn Luân Lão Mẫu 崑崙老母hoặc Vân Chủng Hoả Lão Mẫu 雲種火老母, Chủng Hoả Lão Mẫu Nguyên Quân 種火老母元君.
          Kì thực, theo Đạo kinh ghi chép, Táo Thân nhân thời, nhân địa, nhân chức mà có sự khác biệt. Táo Vương kinh 灶王經có nói,
- Đông phương Thanh Đế Táo Quân 東方青帝灶君
- Nam phương Xích Đế Táo Quân南方赤帝灶君
- Tây phương Bạch Đế Táo Quân西方白帝灶君
- Bắc phương Hắc Đế Táo Quân北方黑帝灶君
- Trung ương Hoàng Đế Táo Quân 中央黃帝灶君
- Ngũ phương ngũ Đế Táo Quân phu nhân 五方五帝灶君夫人
- Thiên trù linh Táo Thần Quân 天廚靈灶神君
- Địa trù thần Táo Thần Quân 地廚神灶神君
- Tằng Táo Tổ Táo Thần Quân 曾灶祖灶神君
- Táo Công Táo Mẫu Thần Quân 灶公灶母神君
- Táo phu Táo phụ Thần Quân 灶夫灶婦神君
- Táo tử Táo tôn Thần Quân 灶子灶孫神君
- Táo gia tỉ muội tức phụ quyến thuộc Thần Quân 灶家姊妹媳婦眷屬神君
- Táo hạ xuy đào Thần Nữ 灶下炊濤神女
- Vận hoả tả hữu tướng quân 運火左右將軍
- Tiến hoả Thần Mẫu 進火神母
- Du hoả đồng tử 遊火童子
- Thiên Đế kiều nam 天帝嬌男
- Địa thường kiều nữ 地常嬌女
Thông trung đổng tử đồng nam đồng nữ 囪中童子童男童女
          Trong đó, Ngũ phương Ngũ Đế Táo Quân là Táo Quân chuyên môn, Ngũ phương du hách là Nhàn tản Táo Quân. Táo tử Táo tôn thần quân là Gia tộc Táo Quân. Xuy đào Thần Nữ, Vận hoả tướng quân, Tiến hoả Thần mẫu, Du hoả đồng tử là nha môn của Táo Quân, mỗi vị đảm nhiệm một chức trách, ống khói cũng có đồng tử tồn tại, bảo hộ công việc thường ngày.
          Chức việc của Táo Thần trước tiên là chủ quản việc bếp núc của một nhà, sau đó biến thành Thần bảo hộ hoạ phúc của một nhà. Từ đời Thương đời Chu lưu truyền đến nay, tế tự Táo Thần là một trong “ngũ tự” 五祀thời cổ. Ngũ tự tức: môn, hộ chủ về xuất nhập, lò bếp chủ về ẩm thực, trung lựu 中霤 (mái hiên nhà) chủ về nhà cửa, hành chủ về đường đi. Nhân đó Táo Thần cũng là một trong các vị thần tư mệnh.
          Táo Quân tục họ là Trương , tên huý là Đan , tượng Táo Thần đa phần có dung mạo trẻ, văn nhã, đầu đội mũ “tướng tư” 相司, thân mặc triều phục, tay cầm hốt hoặc cây như ý, diện mạo thanh tú, không có râu, thần thái tự nhiên. Ngày mồng 3 tháng 8 âm lịch là Thánh thọ Táo Quân. Táo Quân có hai vị đồng tử bên cạnh, một đồng tử bưng hộp thiện, một đồng tử bưng hộp ác,  thường ngày đem hành vi của người trong nhà ghi lại bỏ vào hộp, cuối năm tổng kết sau đó tâu lại với Ngọc Hoàng Thượng Đế.
          Táo Quân nguyên là một trong những tinh tú trên trời, nhân vì phạm lỗi bị biếm xuống trần, chuyên chức chủ quản khuyến thiện trừng ác của người dân. Ngày 24 tháng Chạp thăng thiên, về thiên đình bẩm báo lại với Ngọc Hoàng Thượng Đế những việc làm trong năm của người trong nhà, cứ theo thực mà bẩm báo, sang năm sau thượng thiên sẽ theo đó mà định hoạ phúc cát hung. Nhân sự việc liên quan đến mỗi hộ năm sau có bình an hạnh phúc hay không, nghi thức đưa tiễn Táo Thần đương nhiên là thành kính, để mong Táo Quân có thể “tâu những việc tốt đẹp, việc xấu bỏ qua một bên”, nói mấy câu tốt đẹp, nhân đó, nhà nhà đều đưa tiễn Táo Thần. Cát Hồng 葛洪trong Bão Phác Tử  - Vi chỉ 抱朴子 - 微旨 có nói:
Thường vào ngày cuối cùng của tháng, Táo Thần cũng lên trời bẩm báo tội trạng của con người. Người nào tội nặng bị đoạt kỉ, một kỉ là 300 ngày; một toán là 3 ngày. Thời gian lên báo hoặc là ngày 30 mỗi tháng, hoặc nửa đêm mồng 1 mỗi tháng, hoặc 23 tháng Chạp, hoặc 24 tháng Chạp, hoặc là vào ngày Canh Thân (1).
          Từ đời Tống về sau, đa phần đều cho là ngày 23 tháng Chạp. Mọi người sợ Táo Thần báo những điều không tốt sẽ gặp tai ương nên ngày tế Táo (ngày 23 tháng Chạp) dùng mật đường bôi lên miệng Táo Thần, từ đó hình thành phong tục tế Táo đặc biệt của Trung Quốc. Trong Kính Táo toàn thư 敬灶全書có nói:
          Táo Quân [ thụ nhất gia hương hoả, bảo nhất gia khang thái, sát nhất gia thiện ác, tấu nhất gia công quá ]
          灶君 [受一家香火, 保一家康泰, 察一家善惡, 奏一家功過. ]
          (Táo Quân [hưởng hương hoả của một nhà, bảo hộ bình an mạnh khoẻ cho một nhà, quan sát việc thiện ác của một nhà, tâu công và tội của một nhà. ] )
          Theo truyền thuyết, phàm bị Táo Quân tâu lỗi, nếu nặng sẽ giảm thọ 300 ngày, nếu nhẹ giảm thọ 100 ngày.
          Trong xã hội nông nghiệp thời cổ, phàm nơi đặt bếp nấu nướng, tất phải thờ Táo Quân, có thể gọi là “gia hộ chi thần”. Riêng Táo Quân ở miếu ít được phụng tự. Mọi người dán hình Táo Thần trên bếp lò, hoặc trên một tấm gỗ, giấy đỏ viết “Cửu Thiên Đông Trù Tư Mệnh Táo Quân Thần Vị” 九天東廚司命灶君神位, đồng thời hai bên dán cặp đối:
Thượng thiên ngôn hảo sự
Hạ giới giáng cát tường
上天言好事
下界降吉祥
          Táo Quân không chỉ chủ quản việc ẩm thực chốn nhân gian, mà còn là vị Thần tư mệnh công tội thiện ác của mỗi nhà, có công hiệu quy phạm nhân tâm.
        (Bổn miếu trụ trì phương trượng Ngọc Khâm cư sĩ 玉欽居士kính soạn)

Chú của người dịch
1-Theo Táo Vương tiết灶王节, trong quyển Trung Quốc phong tục đại từ điển中国风俗大辞典, chủ biên: Thân Sĩ Nghiêu 申士垚, Phó Mĩ Lâm 傅美琳:
Người nào tội nặng bị đoạt kỉ, một kỉ là 300 ngày; người tội nhẹ bị đoạt toán, một toán là 100 ngày
                                      (Dậu dương tạp trở 酉阳杂俎)

                                                                     Huỳnh Chương Hưng
                                                                     Quy Nhơn 08/02/2018
                                                         Ngày 23 tháng Chạp năm Đinh Dậu

Previous Post Next Post