Dịch thuật: Lai lịch danh xưng các triều đại Trung Quốc

LAI LỊCH DANH XƯNG CÁC TRIỀU ĐẠI TRUNG QUỐC

          Trung Quốc có lịch sử lâu đời, các triều đại cũng nhiều. Việc đầu tiên mà những người sáng lập triều đại bắt tay làm chính là xác lập quốc hiệu (danh xưng triều đại). Quốc hiệu là xưng hiệu của một đất nước. Trong Sử kí – Ngũ Đế bản kỉ 史记 - 五帝本纪 có ghi:
Tự Hoàng Đế chí Thuấn Vũ, giai đồng tính nhi dị kì quốc hiệu, dĩ chương minh đức.
自黄帝至舜禹, 皆同姓而异其国号, 以章明德.
(Từ Hoàng Đế đến ông Thuấn ông Vũ, đều là cùng họ nhưng khác quốc hiệu, để làm sáng cái đức sáng)
Danh xưng triều do đâu mà quyết định? Đại để có 5 cách:
          - Từ danh xưng của liên minh bộ tộc, bộ lạc mà ra.
          - Từ phong hiệu, tước vị vốn có của người sáng lập.
          - Bắt nguồn từ khu vực nguyên thuỷ của người sáng lập, hoặc khu vực thống trị của chính quyền
          - Bắt nguồn từ quan hệ tông tộc.
          - Ngụ ý cát tường.
          Cụ thể như sau:
1 - Hạ : theo truyền thuyết, ông Vũ từng được phong ở Hạ Bá 夏伯, nhân đó xưng chính quyền của mình là “Hạ”. Ngoài ra theo thuyết của Sử học gia Phạm Văn Lan 范文澜, sau khi con của ông Vũ là Khải dời đến Đại Hạ 大夏 ở phía tây (vùng sông Phần sông Quái phía nam Sơn Tây), mới xưng là “Hạ”
2- Thương : tương truyền thuỷ tổ của triều Thương (đất Thương nay thuộc phía nam Thương Khâu 商丘Nam 河南) là ông Khế từng giúp ông Vũ có công được thụ phong ở Thương, sau đó lấy “Thương” để gọi bộ lạc (hoặc bộ tộc) của mình. Sau khi ông Thang diệt nhà Hạ, lấy “Thương” làm quốc danh. Sau Bàn Canh 盘庚 dời đến đất Ân (nay là phía tây bắc An Dương 安阳Nam 河南), xưng “Ân” hoặc gọi chung “Ân Thương”.
3- Chu : bộ lạc Chu đến đời Cổ Công Đản Phủ 古公亶父 dời đến Chu Nguyên 周原 (nay là Kì Sơn 岐山 Thiểm Tây 陕西). Sau khi Vũ Vương 武王 diệt nhà Ân, lấy “Chu” làm tên triều đại. Thời kì đầu nhà Chu kiến đô tại Hạo (nay là phía tây nam Tây An 西南 Thiểm Tây 陕西), sau Bình Vương 平王 dời về Lạc Ấp 洛邑 ở phía đông (nay là Lạc Dương 洛阳Nam 河南), nhân vì ở phía đông của Hạo, nên có xưng hiệu là “Tây Chu” và “Đông Chu”.
4- Tần : theo Sử kí 史记, Tần vốn là một bộ lạc cổ, thủ lĩnh Phi Tử 非子 có thành tích với Chu Hiếu Vương 周孝王, được Chu Hiếu Vương ban cho tính “Doanh” , đồng thời tặng cho một khoảnh đất nhỏ (nay là huyện Thiên Thuỷ 天水 Cam Túc 甘肃, một thuyết khác là Cốc Danh 谷名 Lũng Tây 陇西). Về sau ông Tương lại có công cứu Chu được phong làm chư hầu. Sau khi Tần Thuỷ Hoàng 秦始皇 thống nhất 6 nước, kiến lập nên nước Tần.
4- Hán : Hạng Vũ 项羽 phong Lưu Bang 刘邦 là “Hán Vương”, sau Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ, thống nhất Trung Quốc, quốc hiệu xưng là “Hán”. Triều Hán tiền kì kiến đô tại Trường An 长安, sau kiến đô tại Lạc Dương 洛阳, cho nên từ đô thành, có sự phân biệt “Tây Hán” và “Đông Hán”, từ thời gian có “Tiền Hán” và “Hậu Hán”.
5- Nguỵ : Hán Hiến Đế 汉献帝 từng phong Tào Tháo 曹操 tước vị là “Nguỵ Công”, “Nguỵ Vương”. Sau khi Tào Phi 曹丕 thay thế nhà Hán bèn xưng “Nguỵ”. Vì hoàng thất tính Tào nên trong lịch sử xưng là “Tào Nguỵ”.
6- Thục : Lưu Bị lấy Tứ Xuyên 四川 làm địa bàn hoạt động, chính quyền xưng là “Thục”, trong lịch sử xưng là “Thục Hán”. Hán ở đây là chỉ sự kế tục Đông Hán.
7- Ngô : Tôn Quyền 孙权 hoạt động vùng hạ du Trường Giang, từng kiến lập nước Ngô. Tào Nguỵ từng phong Tôn Quyền là “Ngô Vương”, cho nên sử xưng là “Tôn Ngô”; vì khu vực tại phía Đông, nên cũng xưng là “Đông Ngô”.
8- Tấn : Tư Mã Chiêu 司马昭 bức Nguỵ Đế phong mình là “Tấn Công”, sau khi diệt nhà Thục, tấn phong là “Tấn Vương”. Về sau con của ông ta là Tư Mã Viêm 司马炎 kế thừa thừa tước vị, ép Nguỵ đế thoái vị, tự lập làm hoàng đế, đặt quốc hiệu là “Tấn”
9- Tuỳ : cha của Tuỳ Văn Đế 隋文帝 Dương Kiên 杨坚 là Dương Trung 杨忠 từng được triều Bắc Chu phong là “Tuỳ Quốc Công” 随国公. Sau Tuỳ Văn Đế tập dụng tước phong đó, xưng là “Tuỳ triều” 随朝. Ông cho rằng chữ (tuỳ)  có nghĩa là chạy, e là bất tường nên đổi sang chữ (tuỳ). (còn tiếp)

                                                                          Huỳnh Chương Hưng
                                                                         Quy Nhơn 16/02/2017

Previous Post Next Post