Ý NGHĨA TƯỢNG TRƯNG CỦA MÀU SẮC
Màu đỏ
là màu cơ bản được ưa chuộng trong văn hoá Trung Quốc, nó thể hiện sự truy cầu
về tinh thần và vật chất của người Trung Quốc. Màu đỏ tượng trưng cho cát tường,
hỉ khánh, như gọi người phụ nữ tác thành hôn nhân cho người khác gọi là “hồng
nương” 红娘, ngày vui treo lồng đèn đỏ, dán câu đối đỏ, chữ
“phúc” đỏ; Nam nữ khi làm lễ cưới, dán chữ “hỉ” đỏ, gọi vui vẻ náo nhiệt và
hưng vượng là “hồng hoả” 红火; hình dung nơi phồn
hoa náo nhiệt là “hồng trần” 红尘; màu đỏ còn tượng
trưng cho cách mạng và tiến bộ. Màu đỏ cũng tượng trưng cho thuận lợi, thành
công, như cảnh ngộ rất tốt của một người nào đó được gọi là “tẩu hồng” 走红, “hồng cực nhất thời” 红极一时, người được cấp trên sủng tín gọi là “hồng nhân” 红人, phân chia lợi nhuận trong kinh doanh gọi là “phân hồng”
分红, thưởng cho người khác gọi là “tống hồng bao” 送红包; màu đỏ còn tượng trưng cho mĩ lệ, xinh đẹp, như chỉ
phụ nữ trang điểm là “hồng trang” 红妆 hoặc 红装, gọi cô gái trang điểm xinh đẹp là “hồng tụ” 红袖, chỉ cô gái nhan sắc xinh đẹp là “hồng nhan” 红颜 v.v...
2- Màu trắng
Trong
văn hoá Trung Quốc, màu trắng tương phản
với màu đỏ, là từ cấm kị cơ bản, thể hiện sự ghét bỏ về vật chất và tinh
thần của người Trung Quốc. Trong thuyết ngũ hành thời cổ ở Trung Quốc, phương tây
là “bach hổ”, phương tây là “hình thiên sát thần” 刑天杀神, là mùa chủ về “sát”, thời cổ chinh phạt bất nghĩa, xử tử tội nhân thường
vào mùa thu. Cho nên màu trắng là màu biểu hiện sự khô kiệt vô huyết sắc, vô
sinh mệnh, tượng trưng tử vong, điềm hung. Như xưa nay khi có thân nhân qua đời,
trong nhà phải áo gai đội hiếu (mặc tang phục màu trắng) làm “bạch sự” 白事, thiết lập linh đường màu trắng, khi đưa quan có cờ
phan màu trắng. Thời cổ còn xem bạch hổ là hung thần, cho nên hiện tại gọi người
phụ nữ mang ách vận tới cho người đàn ông gọi là “bạch hổ tinh” 白虎星. Trong quá trình phát triển, do bởi chịu ảnh hưởng của
công năng chính trị nên công năng tâm lí của màu trắng cũng tượng trưng cho hủ
bại, phản động, lạc hậu, như “bạch chuyên đạo lộ” 白专道路 (chỉ nghiên cứu lí luận mà không có phương hướng). Màu trắng cũng tượng
trưng cho thất bại, ngu xuẩn, gặp phải điều không có lợi, như trong chiến tranh,
phe thất bại sẽ giương “bạch kì” 白旗biểu thị đầu hàng, gọi
những người trí lực thấp kém là “bạch si” 白痴,
bỏ công sức ra mà không có ích gì, không có hiệu quả gì gọi là “bạch mang” 白忙, “bạch phí lực” 白费力,
“bạch can” 白干. Màu trắng còn tượng trưng cho gian tà, âm hiểm, như
“xướng bạch kiểm” 唱白脸 (vai phản diện trên sân khấu), gian hùng “bạch kiểm” 白脸 (mặt trắng). Cuối cùng, màu trắng còn tượng trưng cho
tri thức thiển cận, không có công danh, như gọi bách tính bình dân là “bạch
đinh” 白丁, “bạch y” 白衣, “bạch thân” 白身, gọi những văn nhân thiếu sự rèn luyện, sự từng trải
không sâu là “bạch diện thư sinh” 白面书生.
3- Màu đen
Thời cổ,
màu đen là “thiên huyền” 天玄, trong văn hoá
Trung Quốc, màu đen mang sắc thái thần bí nặng nề, trang trọng và nghiêm túc. Ý
nghĩa tượng trưng của màu đen do bởi tiếp thu ảnh hưởng văn hoá phương tây nên
tương đối phức tạp. Một mặt nó tượng trưng cho chính nghĩa, nghiêm túc, như sắc
mặt đen của Bao Công “hắc kiểm” 黑脸 trong truyền thống
dân gian, Trương Phi 张飞, Lí Quỳ 李逵 trong Kinh kịch
truyền thống. Mặt khác, do bởi bản thân sắc đen không có ánh sáng, mang đến cho
con người cảm giác âm hiểm, cay độc và khủng bố. Màu đen tượng trưng cho tà ác,
phản động, như gọi hạng người âm hiểm cay độc là “hắc tâm trường” 黑心肠, nội tình xấu xa đen tối không thể nói với ai là “hắc
mạc” 黑幕, thành viên của tập đoàn phản động là “hắc bang” 黑帮, “hắc thủ” 黑手, gọi danh sách mà kẻ
thống trị tiến hành bức hại chính trị những người có chính kiến bất đồng là “hắc
danh đơn” 黑名单. Màu đen còn biểu thị phạm tội, vi phạm pháp luật,
như đi trên đường của bọn đạo tặc gọi là ‘tẩu hắc đạo” 走黑道,
quán trọ làm việc phi pháp, giết người cướp của gọi là “hắc điếm” 黑店, hàng hoá phạm pháp mà giao dịch gọi là “hắc hoá” 黑货, “hắc thị” 黑市, tiền bạc có được
do thủ đoạn phi pháp gọi là “hắc tiền” 黑钱...
4- Màu vàng
Màu
vàng là sự biến dị phát triển trong văn hoá Trung Quốc, như thời trước mọi người
gọi ngày mà thích hợp để làm việc lớn là “hoàng đạo cát nhật” 黄道吉日, nhưng nó cũng đại biểu cho quyền thế, uy nghiêm, đó
là do bởi trong ngũ phương, ngũ hành, ngũ sắc thời cổ, trung ương thuộc thổ sắc
vàng. Màu vàng tượng trưng cho chính quyền trung ương, nghĩa là quốc thổ, cho
nên màu vàng được đế vương phong kiến các đời chuyên dùng, dân thường không thể
tuỳ tiện sử dụng “màu vàng”, như “hoàng bào” 黄袍
là “long bào” của thiên tử, “hoàng việt” 黄钺
là nghi trượng của thiên tử, “hoàng bảng” 黄榜
là chiếu thư của thiên tử, “hoàng mã quái” 黄马褂
là quan phục của hoàng đế triều Thanh ban tặng cho trọng thần văn võ.
5- Màu xanh
Trong
văn hoá truyền thống Trung Quốc, màu xanh có song trùng tính, nó ngoài việc biểu
thị nghĩa hiệp ra, còn biểu thị hung ác hoang dã. Đó là do bởi nhân loại trong
quá trình trường kì sinh sống ở thời đại sơ thuỷ cùng với sau này đã nhờ màu
xanh bảo vệ mình, dựa vào nó để sinh tồn; nhưng đồng thời, màu xanh cũng bảo vệ
thiên địch của nhân loại cùng những động vật hung dữ ăn thịt người. Nghĩa hiệp
là chính nghĩa, như phiếm chỉ nhóm người tụ tập chốn núi rừng cướp của người
giàu chia cho người nghèo là “lục lâm hảo hán” 绿林好汉. Ác dã là tà ác, cho nên thời trước cũng chỉ bọn phỉ “lục lâm” chiếm
núi làm vương, chặn đường cướp của nhiễu loạn bách tính. Màu xanh cũng tượng
trưng đê tiện, như nô bộc thời Hán vấn khăn xanh, từ triều Nguyên trở về sau,
phàm ca kĩ đều vấn khăn xanh để thể hiện địa vị thấp kém.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 1/10/2016
Nguồn
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật