Dịch thuật: Hoàng lăng triều Minh

HOÀNG LĂNG TRIỀU MINH

          Hoàng lăng 皇陵 của triều Minh vốn tên là Anh lăng 英陵, toạ lạc tại làng Thái Bình 太平 cách 7 km về phía tây nam huyện Phụng Dương 凤阳 tỉnh An Huy 安徽. Đây là mộ hợp táng phụ thân và mẫu thân của Chu Nguyên Chương 朱元璋 là Chu Thế Trân 朱世珍 và Trần thị 陈氏.
          Tổ tịch của Chu Thế Trân tại Câu Dung 句容 Giang Tô 江苏, vì cuộc sống bức bách phải nhiều lần chuyển dời, cuối cùng định cư tại thôn Cô Trang 孤庄 làng Thái Bình 太平 Hào Châu 濠州 (nay là Phụng Dương, An Huy), làm ruộng chi địa chủ Lưu Kế Đức 刘继德, gian nan vất vả sống qua ngày. Tháng 6 năm 1344, vì trận ôn dịch, Chu Thế Trân 64 tuổi, vợ là Trần thị 59 tuổi cùng người con trưởng là Chu Hưng Long 朱兴隆 nối nhau qua đời. Cả đời làm ruộng mà không có một mảnh đất để chôn thân. Chu Nguyên Chương 17 tuổi xin địa chủ Lưu Kế Đức, ông ta không những không cho đất mà còn quát mắng. Sau người anh của địa chủ là Lưu Kế Tổ 刘继祖 thương tình cho một khoảnh đất nhỏ. Khi táng không quan không quách, chỉ mặc cho người mất quần áo cũ rách vốn có, chôn cất sơ sài.
          Về sau trong bài văn bia Hoàng lăng do Chu Nguyên Chương soạn, đối với việc này đã thuật lại một cách bi thảm:
          Xưa phụ hoàng của ta, ngụ cư tứ phương. Làm nông gian khổ, sớm tối bàng hoàng. Phút chốc trời cao giáng nạn, quyến thuộc gặp phải tai ương. Hoàng khảo 64 tuổi mệnh chung, Hoàng tỉ 59 tuổi lìa trần. Anh cả mất trước, cả nhà tang tóc. Điền chủ Đức không quan tâm, còn quát tháo mắng la, không cho chút đất, xóm làng thương xót. Bỗng người anh của ông ta khảng khái, cấp cho chút đất. Lúc táng không quan không quách, chỉ mặc áo rách, chôn nông 3 thước, cúng tế chẳng có món ngon.
          Tháng 4 năm 1366, Ngô Vương Chu Nguyên Chương về quê tế tổ, thấy phần mộ phụ mẫu hoang phế, trong lòng không yên, liền bồi đắp lại tu chỉnh cho mới. Năm 1368, sau khi Chu Nguyên Chương xưng đế, truy phong phụ mẫu là Nhân Tổ Thuần Hoàng Đế 仁祖淳皇帝, Thuần Hoàng Hậu 淳皇后. Đồng thời từ năm 1369 đến 1378, xây Hoàng lăng cho phụ mẫu. Người anh thứ 3 và chị dâu cùng 2 đứa cháu của Chu Nguyên Chương cũng phụ táng ở đây.
          Hoàng lăng chiếm khoảng 25km2 với 3 vòng tường thành là hoàng thành 皇城, chuyên thành 砖城, thổ thành 土城. Chu vi thổ thành là 14,4km, chuyên thành là 3,7km, hoàng thành là 275m. Có các kiến trúc như Hồng môn 红门, Hồng kiều 红桥, Linh tinh môn 棂星门, Ngự kiều 御桥, Kim môn 金门, Hoàng đường 皇堂… Phần mộ hình cái đấu úp, dài khoảng 50m, rộng 35m cao 4m, trồng cây tùng cây bá. Trung ương toạ lạc tại phía sau nội thành, toạ nam triều bắc, đây là nhân vì cung điện trung đô tại phía đông bắc của Hoàng lăng, để hướng về trung đô nên hướng khẩu triều bắc. Hai bên thần đạo bên trong bắc môn dựng 32 đôi hoa biểu tượng đá 9 (thời kì “văn cách” bị phá hoại, tàn khuyết không còn nguyên vẹn. Hiện ngoài 1 đôi bị tàn khuyết, còn lại đều được tu bổ hoàn chỉnh), trước Kim thuỷ kiều, phía tây dựng bia Hoàng lăng, phía đông dựng bia không chữ (vô tự bi), cung khuyết điện vũ của Hoàng lăng, tráng lệ uy nghiêm.
          Năm 1635, Hoàng lăng gặp phải cơn binh hoả, phá huỷ. Mặc dù như vậy, nó vẫn được liệt vào 1 trong 8 cảnh của Phụng Dương lúc bấy giờ.
          Hiện tại lăng khâu và thạch tượng của Hoàng lăng được bảo quản tốt, điêu khắc ở thạch khắc tinh mĩ, mang phong cách nghệ thuật thời Nguyên, là lăng có số lượng thạch khắc ở thần đạo nhiều nhất trong số các lăng mộ đế vương đời Minh.

                                                                   Huỳnh Chương Hưng
                                                                   Quy Nhơn 27/11/2015

Nguyên tác Trung văn
HOÀNG LĂNG
皇皇陵
trong quyển
MINH ĐẠI THẬP BÁT LĂNG
明代十八陵
Tác giả: Hoàng Liêm 黄濂
Đại Liên xuất bản xã, 1999
Previous Post Next Post