THẬP VẬT
(Kì 3)
Thời cổ,
gọi đũa là “trứ” (trợ) 箸, nhưng thời Tiên Tần
khi ăn cơm thường không dùng đũa. Trong Lễ
kí – Khúc lễ thượng 禮記 - 曲禮上 có câu:
Vô đoàn phạn
毋摶飯
(Chớ có vò cơm)
Ý nói là không nên dùng tay vò cơm lại thành nắm để
ăn, có thể thấy lúc bấy giờ là dùng tay để ăn cơm. Nhưng trong một số tình huống
nhất định thì dùng đũa. Cũng trong Lễ kí
– Khúc lễ thượng 禮記 - 曲禮上 có câu:
Canh chi hữu thái giả dụng giáp
羹之有菜者用梜
(Canh có rau thì dùng đũa)
Họ Khổng 孔 đã sớ rằng:
Dĩ kì thái giao hoành, phi giáp bất khả
以其菜交橫非梜不可
(Vì rau nằm ngang dọc lẫn lộn, không dùng đũa không được)
“Giáp” 梜 chính là một loại đũa. Khoảng đến thời Hán đũa mới
dùng phổ biến. Trong Hán thư – Trương
Lương truyện 漢書 - 張良傳 có ghi:
Thỉnh tá tiền trợ dĩ trù chi
請借前箸以籌之
(Xin được mượn đũa để trù tính)
Dụng cụ
đựng rượu thời cổ có “tôn” 尊, “quang” 觥, “lôi” 罍, “hồ” 壺 ..
Trong Thi kinh –
Chu Nam
– Quyển nhĩ 詩經 - 周南 - 卷耳 có những câu
như:
Ngã cô chước bỉ kim lôi
我姑酌彼金罍
(Ta rót rượu ở chiếc lôi vàng kia)
Ngã cô chước bỉ tự quang
我姑妁彼兕觥
(Ta rót rượu vào chén bằng sừng con tự kia)
Đó là những đồ dùng để đựng rượu. “Quang” 觥, đồng thời cũng là đồ dùng để uống rượu, cho nên
trong Thi kinh – Bân phong – Thất nguyệt 詩經 - 豳風 - 七月 có câu:
Xưng bỉ tự quang
Vạn thọ vô cương
稱彼兕觥
萬壽無疆
(Dâng chén rượu bằng sừng con tự lên
Chúc vua sống thọ vô tận)
“Lôi” 罍, “hồ” 壺 ngoài đựng rượu ra
cũng còn dùng để đựng nước nữa. Người xưa dùng cái gáo để múc rượu, múc nước. Múc gọi là “ấp” 挹,
múc xong rót vào đồ dùng để uống gọi là “chú” 注.
Cho nên trong Thi kinh – Tiểu nhã – Đại
đông 詩經 - 小雅 - 大東 có
câu:
Bất khả dĩ ấp tửu tương
不可以挹酒漿
(Không thể múc rượu được)
Trong Thi kinh – Đại nhã – Huýnh chước 詩經大雅泂酌:
Ấp bỉ chú tư
挹彼注玆
(Múc ở cái này rót vào cái kia)
“Tước” 爵 là từ thông xưng đồ dùng để uống rượu thời cổ. Nhưng khi
là chuyên danh, “tước” là loại dùng để hâm rượu, nó có 3 chân, phía dưới có thể
đốt lửa. Đồ dùng để uống rượu thời cổ là “cô” 觚
(bính âm: gu với thanh 1) và “chí” 觶 (bính âm: zhì),
“chí” tương đối nhẹ, nhỏ, cho nên người xưa nói “dương chí” 揚觶 (nâng chén). Từ sau thời Chiến Quốc mới xuất hiện loại
“bôi” 杯 (桮) có hình tròn, hai
bên có quai cong, người đời sau gọi đó là “nhĩ bôi” 耳杯,
cũng còn gọi là “vũ thương” 羽觴 (1). “Bôi”
có thể dùng để uống rượu, cũng có thể dùng để đựng canh. Trong Sử kí – Hạng Vũ bản kỉ 史記 - 項羽 - 本紀 có câu:
Tất dục phanh nhi ông, hạnh phân ngã nhất
bôi canh
必欲烹而翁, 幸分我一杯羹
((Cha ta cũng là cha ngươi),
nếu muốn nấu cha ngươi thì chia cho ta một bát canh với)
Chất liệu của “bôi” có loại
bằng ngọc, bằng bạc, bằng đồng, bằng gỗ cây sơn, đời Hán rất lưu hành.
Trong các sách cổ thường thấy
“bàn di” 槃(盤)匜 (bính âm: yí) đi chung với nhau, cả hai đều là dụng cụ
dùng để rửa. “Di” 匜 giống trái bầu, có cán, có chân, có nắp. Trong Tả truyện – Hi Công nhị thập tam niên 左傳 - 僖公二十三年 có ghi Hoài Doanh 懷嬴
“phụng di ốc quán” 奉匜沃盥 (bưng chậu nước rửa) cho công tử Trùng Nhĩ 重耳, có thể thấy “di” là loại dùng để rửa tay. Thời cổ
khi tế tự hoặc yến tiệc có nghi thức rửa tay. Khi dùng “di” đựng nước để rửa,
phía dưới dùng “bàn” 槃 để hứng nước, cho
nên trong Thuyết văn 說文 nói “bàn” là
“thừa bàn” 承槃. Thời cổ “bàn” lại được dùng trong việc ăn uống.
Trong Tả truyện – Hi Công nhị thập tam
niên左傳 - 僖公二十三年 có nói đến “nãi quỹ bàn san” 乃饋盤飱 (bèn sửa soạn mâm cơm); trong Sử
kí – Hoạt kê liệt truyện 史記 - 滑稽列傳 có nói đến
“bôi bàn lang tịch” 杯盤狼藉 (chén
mâm bừa bãi) (2), nhưng chưa phải là loại “bàn” 盤 hiện đại. “Bàn” hiện đại sau khi đồ sứ phát đạt mới xuất
hiện.
Những loại dùng cụ dùng
trong ăn uống nói trên, đại đa số là giới quý tộc hưởng dụng, dân thường chỉ
dùng “lịch” 鬲, “bồn” 盆, “vu” 盂, “quán” 罐 làm bằng sành mà
thôi.
CHÚ CỦA NGUYÊN TÁC
(1)- Trong Hán
thư – Ngoại thích truyện 漢書 - 外戚傳, Nhan Sư Cổ 顏師古 khi chú đã dẫn lời của Mạnh Khang 孟康 rằng:
Vũ thương, tước dã, tác sinh tước hình,
hữu đầu vĩ vũ dực
羽觴, 爵也, 作生爵形, 有頭尾羽翼
(Vũ thương là cái tước, làm giống chim tước, có đầu,
đuôi, cánh)
(2)- Theo Quế Phức 桂馥.
CHÚ CỦA NGƯỜI DỊCH
- Trứ (trợ) 箸: cái đũa, cùng nghĩa
với chữ “khoái” 筷
- Tôn 尊: cái chén
- Quang 觥: cái chén uống rượu
bằng sừng trâu
- Lôi 罍: cái chén uống rượu.
Chén ngoài có vẽ hình mây sấm nên gọi là lôi
- Hồ 壺: cái hồ, cũng như
cái nậm
- Tước 爵: cái chén rót rượu
- Cô 觚: cái bình đựng rượu
có cạnh
- Chí 觶: cái vò đựng rượu
(làm bằng gỗ)
- Bôi 杯: cái chén
- Bàn 盤: cái mâm, cái chậu tắm
rửa
- Di 匜: đồ rửa mặt đời xưa.
Cũng đọc là “dị”
- Lịch 鬲: một thứ đồ ngày xưa
giống như cái đỉnh
- Bồn 盆: cái bồn, cái chậu
sành
- Vu 盂: cái chén
- Quán 罐: cái lọ nhỏ (như lọ
đựng chè)
(Theo Hán Việt tự điển của Thiều
Chửu)
Huỳnh Chương
Hưng
Quy Nhơn 06/12/2013
Nguyên tác Trung văn trong
CỔ ĐẠI HÁN NGỮ
古代漢語
(tập 3)
Chủ biên: Vương Lực 王力
Trung Hoa thư cục, 1998.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật