Dịch thuật: Đại điển tế Thiên của Hoàng đế


ĐẠI ĐIỂN TẾ THIÊN CỦA HOÀNG ĐẾ

          Tế tự, bao gồm tế Thiên, tế Thần, tế Tổ, là hoạt động lễ nghi trọng yếu của cung đình triều Thanh. “Lễ mạc đại vu tự Thiên” 礼莫大于祀天 (Trong các lễ  không có lễ nào lớn bằng tế Thiên) (1). Tế Thiên là quan trọng nhất trong tế tự. Trừ tình huống đặc biệt ra, các Hoàng đế đều đích thân hành lễ. Tế Thiên ấn định vào ngày Đông chí hàng năm, mang ý nghĩa “đón ngày bắt đầu dài ra”. Địa điểm tại Viên khâu 圜丘 (2) Thiên đàn 天坛.
          Trước lễ tế 3 ngày, Hoàng đế trai giới ở trai cung. Trước 2 ngày, Thần trù 神厨 (3) chuẩn bị các loại tế phẩm. Tế khí phân ra chính vị, phối vị, tùng vị, từ 36 đến 43 loại như: tước đăng phủ quỹ … đựng rượu. canh, thịt, rau, lương, trái cây cùng “toàn sinh” 全牲 tức trâu, dê, heo nguyên con. Chính vị là bài vị Hoàng Thiên Thượng Đế, phối vị là bài vị Tổ tiên của hoàng đế, tùng vị là bài vị của Đại minh (mặt trời), Dạ minh (mặt trăng), Tinh thần (sao), và Vân, Vũ, Phong, Lôi. Các tế phẩm do Thần trù chuẩn bị xong được đưa đến Thần khố 神库 (4) sắp đặt chỉnh tề, đợi trước lễ tế 1 ngày Hoàng đế đến Thiên đàn làm lễ “Tỉnh sinh” 省牲.
          Lễ “Tỉnh sinh” là nghi thức cuối cùng vào đêm trước lễ tế. Ngày đó, Hoàng đế hành lễ duyệt chúc bản 祝版 (5) tại điện Thái Hoà 太和 trong Tử cấm thành 紫禁城, lễ xong thống lĩnh bách quan từ Trung lộ 中路 xuất cung đi đến Thiên đàn. Trên đường đi có lỗ bộ nghi vệ đi đầu, vũ lâm quân, bộ quân, quan binh người Mãn người Hán hộ vệ. Dọc đường đắp đất vàng từ sớm, dùng nước sạch rảy lên,  màn xanh che các ngõ, người đi đường nếu tránh không kịp thì có thể quỳ mọp nơi đó. Loan giá tiến vào cửa Viên khâu, đến phía tây Thần lộ ngoài cửa Chiêu Hanh thì xuống kiệu. Tán dẫn quan 赞引官 (vị quan hướng dẫn) đưa Hoàng đế tiến vào bên trái cửa Chiêu Hanh, bên trái Linh tinh môn 棂星门 (6), đến trước Hoàng khung vũ 皇穹宇 (7) bước lên tam cấp tiến vào Hoàng khung vũ. Tư hương quan 司香官 (vị quan lo việc hương đèn) quỳ dâng hương lên Hoàng đế. Hoàng đế đến trước hương án dâng 3 lần hương hành lễ tam quỵ cửu khấu trước bài vị “Hoàng Thiên Thượng Đế”; sau đó lần lượt dâng hương hành lễ tại phối vị. Lễ xong, Tán dẫn quan đưa Hoàng đế rời Hoàng khung vũ đến Thần khố, duyệt qua các tế phẩm. Duyệt xong, Tán dẫn quan đưa Hoàng đế rời Thần khố đến Viên khâu xem qua đàn. Chính vị tựa bắc hướng nam, là vị trí của Hoàng Thiên Thượng Đế; phối vị là 2 nhà tựa đông tây đối diện nhau, là vị trí liệt Tổ liệt Tông của Hoàng đế; ở giữa là vị trí của người đọc chúc bản; tùng vị tại tầng thứ hai ở hai bên đông tây tựa bắc. Vị trí tế của Hoàng Đế ở chính nam lên từ bậc tam cấp ở giữa. Hai bên hướng chính nam phía dưới đài là đội nhạc, bên trái là chuông bên phải là khánh, ở giữa là vị trí của “bát dật vũ” 八佾舞 (8). Vương công các quan, tự khanh, ngự sử, đường quan cho đến chấp sự đều ở vào vị trí của mình cả trên đàn dưới đàn. Tán dẫn quan đưa Hoàng đế lần lượt duyệt qua, đồng thời giục người ở vị trí đó quỳ tâu. Duyệt xong, Hoàng đế ngồi kiệu đến trai cung qua đêm.
          Đêm xuống, nơi đàn phòng bị nghiêm nhặt. Nhân viên lo việc tế nhìn hướng các đèn treo trên cao mà tụ tập, bận rộn đưa tế phẩm đến đàn tế.
          Ngày hôm sau, trời chưa sáng, Hoàng đế đã khởi giá, dưới sự hộ vệ của quan các nha môn cùng hộ vệ quân, nghi vệ nghi trượng, đèn dẫn đường, lư hương dẫn đường đi trước, tiến vào bên trái cửa Chiêu Hanh đến phía tây Thần lộ bên ngoài Linh tinh môn thì xuống kiệu. Thái thường tự khanh nghinh đón đưa đến Cụ phục đài 具服台 (9) bỏ triều phục, rửa tay, rửa mặt, nghỉ ngơi trong chốc lát, sau đó mặc “phủ phục” 黼服 (tế phục). Một khắc trước khi trời sáng, dưới sự hướng dẫn của Tán dẫn quan, Hoàng đế bước vào bên trái Linh tinh môn, lên bậc tam cấp đến vị trí tế ở tầng thứ hai, đứng hướng về bắc, lập tức cử hành nghi thức tế Thiên.
          - Điển nghi quan 典仪官 (vị quan lo về nghi thức tế lễ) xướng: “Phần sài nghinh Đế Thần” 燔柴迎帝神. Lò phần sài phía đông nam nổi lửa lên, vọng đăng 望灯 (đèn) phía tây nam treo cao. Đội nhạc tấu khúc “Thuỷ bình chi chương” 始平之章, múa bát dật. Chưởng liệu quan 掌燎官 (vị quan lo việc củi lửa) đem con nghé đã chuẩn bị sẵn đặt lên giàn củi để thiêu, đồng thời trong lò cũng đốt nhánh tùng bá lên. Tán dẫn quan cung kính đưa Hoàng đế hướng đến Thần vị, phối vị dâng 3 lần hương, hành lễ tam quỵ cửu khấu. Lễ xong về lại vị trí. (Ở tùng tế vị do tế quan tiến hành đồng thời).
          - Điển nghi quan xướng: “Điện ngọc bạch” 奠玉帛 (ngọc và lụa). Đội nhạc tấu khúc “Cảnh bình chi chương” 景平之章. Ngọc và lụa do Tư ngọc quan 司玉
(vị quan lo về ngọc và lụa) dâng lên. Tán dẫn quan hướng dẫn Hoàng đế làm lễ dâng ngọc và lụa, sau đó về lại vị trí.
          - Điển nghi quan xướng: “Tiến trở” 进俎.  Đội nhạc tấu khúc “Hàm bình chi chương” 咸平之章. Tán dẫn quan đưa Hoàng đế đến Thần vị làm lễ dâng trở. Tư trở sinh quan 司俎牲官 (vị quan lo việc dâng con sinh) sẽ “ốc trở” 沃俎, tức rưới nước thịt lên con sinh đang đặt trên tấm trở (10). Lễ xong Hoàng đế về lại vị trí.
          - Điển nghi quan xướng: “Sơ hiến” 初献. Đội nhạc tấu khúc “Thọ  bình chi chương” 寿平之章. Tán dẫn quan đưa Hoàng đế chính vị phối vị làm lễ Sơ hiến, do Tư tước quan 司爵官 (vị quan lo việc dâng rượu) dâng tước (rót rượu) xong, nhạc ngừng.
          - Điển nghi quan xướng: “Độc chúc” 读祝. Độc chúc quan 读祝官 trước Chúc bản án đọc to chúc văn. Lễ xong Hoàng đế về lại vị trí.
          - Điển nghi quan xướng: “Á hiến” 亚献. Đội nhạc tấu khúc “Gia bình chi chương” 嘉平之章, vẫn do Tư tước quan dâng rượu. Hoàng đế đến chính vị, phối vị hành lễ.
          - Điển nghi quan xướng: “Chung hiến” 终献. Đội nhạc tấu khúc “Vĩnh bình chi chương” 永平之章. Nghi lễ như lần trước.
          - Điển nghi quan xướng: “Thụ phúc tộ” 受福祚. Nhạc ngừng. Tán dẫn quan đưa Hoàng đế đến trước chính vị, Quang lộc tự và Đường quan 2 người dâng rượu tế, thịt tế lên Hoàng đế, Hoàng đế nhận lấy. Lễ xong về lại vị trí.
          - Điển nghi quan xướng: “Triệt soạn” 撤馔. Đội nhạc tấu khúc “Hi bình chi chương” 熙平之章. Tán dẫn quan đưa Hoàng đế đến vị trí “Vọng liệu” 望燎 (11). Phụng tự quan 奉祀官, Phụng bạch quan 奉帛官, Phụng soạn quan 奉馔官, Phụng hương quan 奉香官 đem chúc bản, tơ lụa, thức ăn đã tế,  và hương đưa đến lò thiêu dùng củi thơm thiêu đốt; sau đó đem lông và huyết của con sinh nơi Thần vị cao nhất chôn ở “ế khảm” 瘗坎 bên cạnh lò phần sài; đem tế phẩm ở phối vị đưa đi thiêu trong 8 lò thiêu ở phía đông bắc lò phần sài. Đem những tế phẩm ở tùng vị Đại minh, Dạ minh đưa đi thiêu trong 2 lò thiêu ở 2 bên cửa đông tây của tường ngoài.
          - Điển nghi quan xướng: “Tống Đế Thần” 送帝神. Đội nhạc tấu khúc “Thái bình chi chương” 太平之章, lễ thành. Tán dẫn quan đưa Hoàng đế ra từ bên trái Linh tinh môn cùng bên trái cửa Chiêu Hanh, đến Cụ phục đài thay áo, rửa ráy nghỉ ngơi, sau đó lên kiệu rời khỏi đàn, lầu chuông nổi chuông lên cho đến khi loan giá về đến hoàng cung mới thôi.

CHÚ THÍCH CỦA NGƯỜI DỊCH
(1)- Theo http://www.taoholycity.com/html trong Tự Thiên định vi thông tế lệnh 祀天定为通祭令 của Viên Thế Khải 袁世凯 có câu:
Lễ mạc đại vu tế, tế mạc đại vu tự Thiên.
礼莫大于祭, 祭莫大于祀天
(Trong các lễ, không có lễ nào lớn bằng lễ tế. Trong các lễ tế không có lễ  nào lớn bằng tế Thiên)
(2)- VIÊN KHÂU 圜丘: đàn tế trời hình tròn.
(3)- THẦN TRÙ 神厨: nơi chế biến các món dâng cúng và cũng là nơi cất giữ công cụ nhà bếp.
(4)- THẦN KHỐ 神库: nơi cất giữ bài vị các thần, khám thờ cũng như những tế khí có liên quan, mỗi khi tế sẽ rước ra đàn tế.
(5)- CHÚC BẢN 祝版: tức bản văn tế.
(6)- LINH TINH MÔN 棂星门: cổng Linh tinh. “Linh tinh” tức “Văn tinh” 文星 trong thiên văn học thời cổ. Cổng giống dạng cổng chào có 3 lối đi. Linh tinh môn biểu thị Thiên môn cho nên trong các kiến trúc cung thất, đàn miếu, lăng tẩm đều có Linh tinh môn.
(7)- HOÀNG KHUNG VŨ 皇穹宇: toà nhà ở Thiên đàn, nơi đặt bài vị Hoàng Thiên Thượng Đế và bài vị Tổ tông  của Hoàng đế.
          Hoàng khung vũ được xây dựng vào năm Gia Tĩnh 嘉靖 thứ 9 triều Minh (năm 1530), lúc đầu có tên là Thái Thần điện 泰神殿, đây là chính điện của đàn Viên khâu. Năm Gia Tĩnh thứ 17 (năm 1583) đổi tên là “Hoàng khung vũ”. Năm Càn Long 乾隆 thứ 17 triều Thanh, kiến trúc được thay đổi như hiện nay.
          Nguồn http://baike.baidu.com/view/239468.htm
(8)- BÁT DẬT VŨ 八佾舞: tức múa Bát dật. 八佾 cũng được viết là 八溢 (bát dật), 八羽 (bát vũ), đây là nhạc vũ dành riêng cho thiên tử, xếp 8 người thành một hàng, có tất cả 8 hàng, tổng cộng đội múa có 64 người, mỗi người cầm một món nhạc khí. Lễ nhà Chu quy định, chỉ có nhạc của thiên tử mới dùng 64 người, cho nên gọi là “Bát dật”; nhạc của chư hầu là “Lục dật” có 36 người; nhạc của khanh đại phu là “Tứ dật” có 16 người, nhạc của kẻ sĩ là “Nhị dật” có 4 người.
          Theo Tứ thư: Ngôn văn đối chiếu, bộ Luận ngữ, trang 33. Hương Cảng Quảng Trí thư cục xuất bản (không ghi năm xuất bản).
(9)- CỤ PHỤC ĐÀI 具服台: tức Lễ phục đài, nơi Hoàng đế thay long bào, mặc vào tế phục để chuẩn bị tế lễ.
(10)- TRỞ : một loại dụng cụ giống chiếc bàn nhỏ dùng để đựng.
(11)- VỌNG LIỆU 望燎: sau lễ Tam hiến hoặc lễ Thích điện, tiết mục cuối cùng mang tính nghi thức chính là “Vọng liệu”. “Liệu” chỉ ngọn lửa đốt các đồ tế như lụa, chúc bản. “Vọng liệu” chính là nhìn ngọn lửa đốt những thứ đó. Dụng ý của “Vọng liệu” là nhìn khói đốt đang bay lên cao, tượng trưng cho lòng thành kính dâng hiến, mong được Thần chứng giám.

                                                                  Huỳnh Chương Hưng
                                                                   Quy Nhơn 1/1/2013

Dịch từ nguyên tác Trung văn
HOÀNG ĐẾ TẾ THIÊN ĐẠI ĐIỂN
皇帝祭天大典
Tác giả: Vương Tử Lâm 王子林
Trong quyển
CUNG QUY LỄ TỤC THÁM U
宫规礼俗探幽
Chủ biên: Thôi Trắc 崔陟
Trung Quốc văn sử xuất bản xã – 2006 
Previous Post Next Post