SỰ KÌ THỊ GIỚI TÍNH
NHÌN TỪ NHỮNG CHỮ THUỘC BỘ “NỮ”
(tiếp theo)
Đầu
tiên, nhìn từ kết cấu chữ Hán, Hán ngữ từ
điển 现代汉语词典 (bản tu đính) thu thập 203 chữ
thuộc bộ “nữ” (bao gồm chữ phồn thể và chữ dị thể), trong đó chữ độc thể có 1
chữ, chữ hợp thể có 202 chữ; trong 202 chữ hợp thể, loại kết cấu trên dưới có
32 chữ, loại kết cấu bao vây có 3 chữ, loại kết cấu trái phải có 167 chữ.
1- Những chữ thuộc bộ “nữ” có kết cấu trên
dưới:
Hiện đại Hán ngữ từ điển 现代汉语词典 (bản tu đính) đã thu thập 32 chữ
thuộc bộ “nữ” có kết cấu trên dưới, như:
妄 妥 妻 委 妾 耍 婆 娶 婪 嫳 胬 …
Trong
32 chữ có kết cấu trên dưới này, chỉ có 1 chữ có bộ “nữ” ở trên đó là chữ 胬 (nỗ), chiếm khoảng 3% trong tổng
số những chữ thuộc bộ “nữ” có kết cấu trên dưới.
Chữ
妾 (thiếp), có chữ 立 (lập), chữ 女 (nữ). Với chữ 立 trong đó, có học giả cho rằng
giống con dao treo ngược, con dao trên đầu người nữ, có thể rớt xuống bất cứ
lúc nào, có thể thấy người nữ ở vào hoàn cảnh bi thảm. Riêng học giả Cô Hồng
Minh 辜鸿铭
đầu thời Dân Quốc thì cho rằng chữ 妾 chính là “立女” (lập nữ), đó là người mà người nam khi mệt mỏi dựa vào.
Ông còn giải thích thêm, dựa tay không chỉ duy nhất là 1, cho nên đối với nam
có thể nhất phu đa thê. Chúng ta không cần phải truy cứu những giải thích đó
đúng hay không, nhưng những giải thích đó đều tồn tại một sự thực: đó là sự hạ
thấp và kì thị đối với nữ tính. Chữ 姦 (gian), Thuyết văn
ghi rằng:
Gian, tư dã. Tùng
tam nữ.
姦, 私也. 从三女.
(Gian là dâm loạn, tư thông. Gồm
3 chữ nữ)
Dùng
3 chữ “nữ” để biểu thị “gian” trong “gian dâm”, đó là sự ô nhục đối với nữ tính.
Chữ 耍 (sái), có chữ 而 (nhi) chữ 女 (nữ); 而 là chữ tượng hình, chỉ chòm râu
của người nam. 而
và 女
kết hợp lại chỉ người nam dùng chòm râu
của mình thả xuống mặt người nữ, mang ý nghĩa đùa bỡn với người nữ.
Chữ 妥 (thoả), có chữ 手 (thủ) chữ 女 (nữ), người nam dùng tay tức
dùng vũ lực để thuần phục người nữ.
Chữ 娶 (thú), ban đầu vốn được viết là
取. Vương Lực 王力 chỉ ra rằng:
Chữ 取
(thủ) và chữ 娶
(thú) vốn là một chữ, người đời sau đã tạo chữ 娶
với nghĩa lấy vợ.
Chữ 取 (thủ) có chữ 耳 (nhĩ) chữ 手 (thủ), trong Chu
lễ 周礼
có nghĩa là săn được thú, cắt lấy tai trái (1).
Thuyết văn ghi rằng:
Thú, thủ phụ dã
娶, 取妇也
(Thú là lấy vợ)
Đoàn
Ngọc Tài 段玉裁
chú rằng:
Thủ bỉ nữ vi ngã
phụ dã
取彼女为我之妇也
(Lấy người nữ đó làm vợ)
Lấy
vợ giống đối đãi với tù binh, cưỡng bức chiếm hữu, tuỳ ý chi phối.
2- Những
chữ thuộc bộ “nữ” có kết cấu bao vây:
Hiện đại Hán ngữ từ điển 现代汉语词典 (bản tu đính) đã thu thập 3 chữ
thuộc bộ “nữ” có kết cấu bao vây, như:
威 嬴 嬲
Chữ
嬴 (doanh) biểu thị họ, ở đây tạm
thời không đề cập.
Chữ
威 (uy), với 3 hướng, trái, phải
và trên vây chữ “nữ”, trên đầu chữ “nữ” lại để cây gậy có thể rơi xuống bất cứ
lúc nào. Có người nói rằng: chữ “uy” là “người” cầm cây “giáo” vây “nữ” lại. Có
thể thấy người nữ ở vào hoàn cảnh bi thảm.
Chữ
嬲 (điểu) là 2 “nam” 男 vây lấy người nữ, biểu thị ý
trêu chọc, quấy rầy.
3- Những
chữ thuộc bộ “nữ” có kết cấu trái phải:
Hiện đại Hán ngữ từ điển 现代汉语词典 (bản tu đính) đã thu thập 167
chữ thuộc bộ “nữ” có kết cấu trái phải, như:
奴 妇 婚 姻 娴 娲 娥 姆 娘 …
Nhìn
từ kết cấu của chữ, những chữ thuộc bộ “nữ” có kết cấu kiểu này so với những chữ
thuộc bộ “nữ” có 2 kiểu kết cấu trước dường như là địa vị nữ tính được đề cao
hơn, nhưng không ít chữ trong đó cũng có sự kì thị.
Thuyết văn ghi rằng:
Thủ phụ dĩ hôn thời,
cố viết hôn.
取妇以昏时, 故曰昏
(Lấy vợ lúc trời tối, cho nên gọi
là hôn)
Họ
Đoàn chú rằng:
“Hôn” tự kì sơ tác
“hôn”
“婚” 字其初作 “昏”
(Chữ “hôn” với bộ nữ lúc ban đầu
viết là “hôn” không có bộ nữ)
Đem
thời gian lấy vợ vào định vào lúc trời tối, là nhân trời tối nhà gái không
phòng bị mà đoạt lấy người nữ làm vợ. Cho nên trong Lễ kí 礼记 có ghi:
Hôn lễ bất hạ
婚礼不贺
(Hôn lễ không chúc mừng)
Còn
với chữ 姻
(nhân), đây là chữ hội ý kiêm hình thanh. Ở Thuyết
văn – Nữ bộ 说文
- 女部 ghi rằng:
Nhân, nữ chi sở
nhân cố viết nhân.
姻, 女之所因故曰姻
(Nhân là người nữ nhân đó mà
theo nên gọi là nhân)
Ở
Bạch Hổ Thông – Giá thú 白虎通 - 嫁娶 cũng ghi rằng:
Nhân giả, phụ nhân
nhân phu nhi thành, cố viết nhân.
姻者, 妇人因夫而成, 故曰姻
(Nhân là người nữ nhân theo chồng
mà thành nên gọi là nhân)
Điều
này nói lên hai bên nam nữ hình thành hôn nhân là không bình đẳng, người nữ bị
phụ thuộc vào người nam.
Chữ
奴 (nô) có chữ 女 (nữ) và chữ 手 (thủ), ý nói dùng tay nắm giữ
tù binh. Thời cổ, tù binh bắt được trong chiến tranh đều bị làm nô lệ, tù binh
bắt được không chỉ có nữ. Quá trình tạo chữ 奴 đã ảnh xạ hiện thực xã hội tù
binh bắt được đều được “đãi ngộ” như nữ, bị người nô dịch.
Chữ
妇 (phụ), Thuyết văn ghi rằng:
Phục dã, tùng nữ
trì trửu sái tảo dã.
服也, 从女持帚洒扫也
(Làm việc nhà, người nữ cầm chổi
quét dọn)
Họ
Đoàn chú rằng:
Phụ, chủ phục sự
nhân giả dã. ….. Phụ nhân, phục vu nhân dã.
妇, 主服事人者也. ….. 妇人, 伏于人也
(Phụ là người chủ yếu làm việc và phục vụ cho
người khác . ….. Phụ nhân là nép vào người khác)
Cách
giải thích của Hứa Thận 许慎 (tác giả Thuyết văn)
và Đoàn Ngọc Tài cũng đã nói rõ địa vị thấp kém của nữ tính.
CHÚ THÍCH CỦA NGƯỜI DỊCH
(1)- Trong Chu lễ - Hạ quan – Đại tư mã 周礼
- 夏官
- 大司马 ghi rằng:
Đại thú công chi,
tiểu thú tư chi, hoạch giả thủ tả nhĩ.
大兽公之, 小兽私之, 获者取左耳.
(Săn
được thú lớn thì nộp làm của công, săn được thú nhỏ thì giữ làm của riêng, người
đi săn cắt tai trái của con thú để tính công)
Theo Chu lễ dịch chú 周礼译注: Dương Thiên Vũ 杨天宇 soạn, trang 421. Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 2004
Trong
nguyên tác in là:
“Chu lễ” hoạch thủ,
thủ tả nhĩ.
“周礼” 获取, 取左耳
(còn tiếp)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn
25/12/2012
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật