Dịch thuật: Lập xuân


LẬP XUÂN

          Lập xuân 立春 khoảng trước sau nguyên đán, là tiết xuân của người xưa. Mọi người thích mùa xuân, mùa xuân muôn vật bừng tỉnh dậy, mặt đất bao phủ một màu xanh mới, cho nên Lập xuân trước giờ là một lễ tiết trọng yếu, kinh sư  và trong cung đều có hoạt động nghinh xuân, nghinh khí.
          Thời Đông Hán, sứ giả nghinh xuân cầm cờ phan màu xanh, đầu vấn khăn xanh, đi đến phía đông ngoại thành long trọng nghinh xuân. Trước khi sứ giả nghinh xuân đến, có một đồng nam trẻ đẹp, mặc áo xanh, đầu trùm khăn xanh, giả đóng vai tượng trưng cho mùa xuân, đứng tại cánh đồng phía đông ngoại thành. Sau khi sứ giả nghinh xuân đến, đồng nam xuất hiện, biểu minh cho mùa xuân đã giáng lâm, sứ giả nhìn thấy liền quỳ xuống lễ bái, sau đó đưa mùa xuân về. Thế là kinh thành đầy sắc xanh, cung cấm đầy sắc xanh, cả một một sức sống tràn trề.
Lập xuân đến, đất nước nông nghiệp Trung Quốc liền bận rộn việc xuân canh. Thời Bắc Tống và Nam Tống cực kì coi trọng lễ tiết Lập xuân này. Lúc Lập xuân, quan địa phương của kinh thành đem “xuân ngưu” 春牛dâng hiến lên cung cấm của triều đình, dùng làm “tiên xuân” 鞭春(1) biểu thị khuyến nông. Thời Bắc Tống phủ Khai Phong 开封 dâng tặng đại xuân ngưu, thời Nam Tống do phủ Lâm An 临安 dâng tặng. “Xuân ngưu” được làm từ gỗ, cũng còn gọi là “thổ ngưu” 土牛. Trong Tuý Ông đàm lục 醉翁谈录có nói, thời Tống, các xuân ngưu làm ra thì xuân ngưu của phủ Chân Định 真定 là lớn nhất.
          Chẳng qua, xuân ngưu làm ra và dâng lên là do phủ Khai Phong hoàn thành. Trong sử thư có nói, trước Lập xuân một ngày, phủ Khai Phong tiến dâng xuân ngưu đưa vào cung để làm lễ “tiên xuân”. Ở hai huyện Khai Phong 开封và Tường Phù 祥符thì đưa xuân ngưu đến trước phủ. Sáng sớm hôm đó, phủ liêu thực hiện “đả xuân”, nghi thức cũng giống như các châu quận. Bên trái bên phải của phủ, bách tính bán những tiểu xuân ngưu. Ngày xuân, Tể chấp, thân vương bách quan đều tặng những phan thắng 幡胜 (2) bằng vàng hoặc bạc. Nơi nội đình, hoạn quan còn dùng dây tơ ngũ sắc đánh vào tiên ngưu, đó chính là sự kiện mà gọi là “đả xuân” 打春.
          Đời Tống, ngày Lập xuân hoàng đế cũng ban thưởng các loại phan thắng cho các cận thần ở kinh thành. Phan thắng là vật trang sức có màu sắc được làm từ những mảnh vàng bạc mỏng và lụa, thịnh hành vào đời Đường, đặc biệt cực thịnh vào đời Tống. Trong Tuý Ông đàm lục 醉翁谈录có nói: ngày hôm đó, từ Lang quan, Ngự sử, Tự giám trưởng, nhị trở lên đều tặng xuân phan thắng, dùng lụa làm thành. Cận thần đều được tặng thêm ngân thắng. Sau khi phủ Khai Phong làm lễ “tiên ngưu”, các quan cùng nhau yến ẩm, sau đó vào triều bái tạ.

Chú của người dịch
1- Tiên xuân 鞭春: cũng gọi là “tiên xuân ngưu” 鞭春牛, “tiên ngưu” 鞭牛, đây là một dân tục truyền thống đặc biệt vùng Ngô Việt. Ngày Lập xuân hoặc bắt đầu xuân tiết, người ta làm ra những con trâu đất nhằm mục đích khuyến nông. Châu huyện cùng nông dân dùng roi đánh vào trâu đất tượng trưng cho vụ cày cấy mùa xuân bắt đầu, lấy điềm được mùa, khuyến khích cày cấy. “Tiên xuân ngưu” cũng gọi là “tiên thổ ngưu” có khởi nguyên tương đối sớm. Trong Chu lễ - Nguyệt lệnh 周礼 - 月令có ghi:
Xuất thổ ngưu dĩ tống hàn khí (3)
出土牛以送寒气
(Làm trâu đất để tống khí lạnh)
Về sau theo đó mà bảo lưu, nhưng đổi lại vào mùa xuân, thịnh hành vào hai đời Đường và Tống, đặc biệt là từ sau khi Tống Nhân Tông ban bố Thổ ngưu kinh 土牛经, phong tục “tiên thổ ngưu” càng quảng bá rộng rãi, trở thành nội dung trọng yếu trong văn hoá dân tục truyền thống.
          Theo https://baike.baidu.com/item
2- Phan thắng 幡胜: một loại vật trang sức được làm từ những mảnh vàng bạc mỏng hoặc từ lụa. Nhân vì có hình dạng giống cờ phan nên có tên là “phan thắng”. Vào ngày xuân phan thắng được dùng để trang sức hoặc dùng làm quà tặng nhau.
3- Câu này được chép vào tháng Mạnh đông trong Lễ kí - Nguyệt lệnh 禮記 - 月令, không phải ở Chu lễ 周礼.

                                                                Huỳnh Chương Hưng
                                                            Quy Nhơn 04/02/2018
                                                   Lập xuân 19 tháng Chạp năm Đinh Dậu

Nguồn
HOÀNG TRIỀU ĐIỂN CỐ KỈ VĂN
皇朝典故纪闻
Tác giả: Hướng Tư 向斯
Bắc Kinh: Trung Quốc văn sử xuất bản xã, 2002
Previous Post Next Post