Dịch thuật: Kết cấu của phú

KẾT CẤU CỦA PHÚ

          Phú có thể chia làm 3 bộ phận: phần đầu có tự , giữa là bản thân của phú, phần sau có “loạn” hoặc “tấn” . Lưu Hiệp 劉勰 trong Văn Tâm Điêu Long – Thuyên Phú 文心雕龍 - 詮賦 có nói:
          Kí lí đoan ư xướng tự, diệc quy dư ư tổng loạn. Tự dĩ kiến ngôn, thủ dẫn tình bản; loạn dĩ lí thiên, điệt trí văn khế.
          既履端於倡序, 亦歸餘於總亂. 序以建言, 首引情本; 亂以理篇, 迭致文契.
          (Mở đầu luôn có “tự”, kết vĩ lấy “loạn” để kết thúc. “Tự” dùng để nói rõ ý nghĩa sáng tác, “loạn” dùng để tống kết yếu chỉ của toàn thiên, có thể tiến một bước tăng cường khí thế của văn chương)
          “Tự” nói rõ nguyên nhân sáng tác, “loạn” hoặc “tấn” đa phần để khái quát đại ý của toàn thiên. Nhưng “tự” và “loạn” không phải mọi bài phú đều nhất định phải có.
          Phú trước thời Tây Hán không có tự, như Điếu Khuất Nguyên phú 弔屈原賦 của Giả Nghị 賈誼Giải trào” 解嘲 của Dương Hùng 揚雄. Người đời sau đem những lời trong Hán Thư 漢書sao chép lại làm thêm tự, đó không phải là nguyên tự của tác giả. Bắt đầu từ thời Đông Hán, tác giả mới tự mình viết ‘phú tự” 賦序 (1), như Lưỡng đô phú 兩都賦 của Ban Cố 班固. Sự khác nhau về hình thức giữa tự và bản thân phú, là phú dùng vận còn tự không dùng vận. Phú tự đời Hán và tản văn thông thường không có sự phân biệt, phú tự lục triều có loại viết theo biền thể văn, như Ai Giang Nam phú tự 哀江南賦序 của Dữu Tín 庾信.
          “Loạn” hoặc “tấn” trong Hán phú đa phần có bộ phận này. Như Điếu Khuất Nguyên phú 弔屈原賦 của Giả Nghị 賈誼 có “tấn”, Cam Tuyền phú” 甘泉賦của Dương Hùng 揚雄 có “loạn”. Đó là dùng theo hình thức của Tao thể.
          Hán phú có bài đặt ra chủ khách đối đáp, mở đầu và kết thúc đa phần dùng tản văn, bản thân phú chia làm 3 bộ phận. Bộ phận mở đầu có điểm gần giống tự; bộ phận kết vĩ thường phát điểm nghị luận, kí thác ý phúng dụ, gần với “loạn” hoặc “tấn”. Như Tử Hư phú 子虛賦, Thượng Lâm phú 上林賦 của Tư Mã Tương Như 司馬相如 là theo loại này. Thời Đường Tống có một số bài phú theo cách này. Như Tiến học giải 進學解 của Hàn Dũ 韓愈, mở đầu có mấy câu tản văn, tác dụng là mở cho đoạn văn dưới (2); A Bàng (*) cung phú 阿房宮賦 của Đỗ Mục 杜牧, bắt đầu từ Ô hô! Diệt lục quốc giả, lục quốc dã, phi Tần dã 鳴呼! 滅六國者, 六國也, 非秦也 là đoạn tản văn phát nghị luận, đây chính là bộ phận kết vĩ kí thác phúng dụ. Tiền Xích Bích phú 前赤壁賦 của Tô Thức 蘇軾, mở đầu và kết vĩ tuy không phải là tản văn, nhưng kết cấu vẫn có thể chia làm 3 bộ phận. Nhâm Tuất chi thu, thất nguyện kí vọng, Tô Tử dữ khách phiếm chu du ư Xích Bích chi hạ.壬戌之秋, 七月既望, 蘇子與客泛舟
游於赤壁之下, đây là bộ phận mở đầu tương đương với tự. Từ Tô Tử viết: Khách diệc tri phù thuỷ dữ nguyệt hồ 蘇子曰: 客亦知夫水與月乎 trở xuống, là bộ phận kết vĩ của nghị luận.

Chú của nguyên tác
1- Vương Khỉ Tôn 王芑孫 đời Thanh trong Độc phú chi ngôn – Tự lệ 讀賦卮言 - 序例 có nói:
Tự tự chi tác, thuỷ vu Đông Kinh
自序之作, 始于東惊京
(Tự tự bắt đầu từ Đông Kinh)
2- Cổ văn từ loại toản 古文辭類纂 xếp Tiến học giải 進學解 vào loại từ phú, chúng tôi cho là đúng.

Chú của người dịch
*-  Về chữ trong tên cung 阿房:
          Trong Hán Việt tự điển của Thiều Chửu có 2 âm “phòng” và “bàng”. Với âm “bàng” ghi rằng:
A bàng 阿房 tên cung điện của nhà Tần.
                              (trang 223, nxb tp/ Hồ Chí Minh, năm 1993)
          Trong Khang Hi tự điển 康熙字典:
          - bính âm fáng.
 Đường vận 唐韻, Tập vận 集韻, Vận hội 韻會, Chính vận 正韻 đều phiên thiết là PHÙ PHƯƠNG 符方, âm (phòng).
          - bính âm páng.
Quảng vận 廣韻 phiên thiết là BỘ QUANG 步光
          Tập vận 集韻, Vận hội 韻會, Chính vận 正韻 phiên thiết là BỒ QUANG , đều âm (bàng). Trong Quảng vận 廣韻 ghi rằng:
A Bàng, Tần cung danh
阿房, 秦宮名
(A Bàng là tên một cung nhà Tần)
          (trang 362, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, năm 2002)

                                                       Huỳnh Chương Hưng
                                                       Quy Nhơn 10/01/2017

Nguyên tác Trung văn trong
CỔ ĐẠI HÁN NGỮ
古代漢語
(tập 4)
Chủ biên: Vương Lực 王力
Trung Hoa thư cục, 1998.
Previous Post Next Post