Dịch thuật: Xuân nhật thư hoài



春日書懷
一春清寐百花香
庭宇深深枕簟涼
千里家山空亂夢
十年春色半他鄉
新髭對鏡朱顏老
孤月懷人夜漏長
詩卷酒盃各無賴
海天寥郭望茫茫
                        阮輝濡

XUÂN NHẬT THƯ HOÀI
Nhất xuân thanh mị bách hoa hương
Đình vũ thâm thâm chẩm điệm lương
Thiên lí gia sơn không loạn mộng
Thập niên xuân sắc bán tha hương
Tân tì đối kính chu nhan lão
Cô nguyệt hoài nhân dạ lậu trường
Thi quyển tửu bôi các vô lại
Hải thiên liêu quách vọng mang mang
                                           NGUYỄN HUY NHU

NGÀY XUÂN VIẾT TỎ NỖI LÒNG
Ngày xuân với giấc ngủ êm đềm, trăm hoa toả hương thơm ngát
Ngoài sân sâu thẳm, chăn gối đều dịu mát
Quê nhà xa ngàn dặm, thường ở trong giấc mộng rối bời
Cảnh xuân qua mười  năm, một nữa là ở nơi đất khách
Râu mọc ra, soi kiếng nhìn khuôn mặt đã có nét già rồi
Ngắm vầng trăng lẻ loi, nhớ đến mọi người, thấy đêm dài dằng dặc
Quyển thơ chén rượu cũng không thể nhờ cậy để giải khuây
Biển trời hoang vắng, nhìn thấy mênh mông.

Dịch thơ
Ngày  xuân ngủ với mùi hương
Gối chăn dịu mát, sân dường âm u
Quê nhà ngàn dặm mịt mù
 Mười năm xuân đến hầu như quê người
Soi gương râu mọc già rồi
Trăng côi lại nhớ, đêm thời qua lâu
Quyển thơ chén rượu còn sầu
Biển trời hoang vắng nhìn đâu cũng buồn
Chú của người dịch
1- Nguyễn Huy Nhu 阮輝濡 (1887 – 1962): còn gọi là Nghè Nhu, là một danh sĩ Nho học và nhà giáo dục Việt Nam đầu thế kỉ 20. Ông là người làng Vạn Lộc, tổng Thượng Xá, huyện Nghi Lộc, phủ Hưng Nguyên (nay là phường Nghi Tân, thị xã Cửa Lò) tỉnh Nghệ An. Nguyên quán ông ở xã Bột Thái, huyện Hoằng Hoá, Thanh Hoá, tổ tiên dời vào Nghệ An.
          Ông đỗ Cử nhân khoa Kỉ Dậu 1909, sau đó được sung chức Giáo thụ phủ Quảng Ninh, Huấn đạo hạng nhất. Năm 1916, ông đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn, dưới triều vua Khải Định khi mới 30 tuổi.
          Bia Văn miếu Huế chép ông đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân, đứng thứ 5 trong số 7 Tiến sĩ của khoa này. Về sau ông làm quan đến Hàn lâm viện tu soạn, Đốc học Quảng Ninh.
          Khi Viện đại học Huế thành lập năm 1957, ông được mời làm giáo sư môn Hán văn.
          Ông qua đời năm 1962.
          Ở trang đầu trong nguyên tác ghi là:
Lư Phong Nguyễn Huy Nhu Bính Thìn Tam giáp Tiến sĩ Lễ bộ tá lí.
山盧(*)峯阮輝濡丙辰三甲進士礼步佐理
    (Chữ “Lư” này gồm bộ bên trái và chữ bên phải)

                                                                        Huỳnh Chương Hưng
                                                                       Quy Nhơn 08/4/2016
Previous Post Next Post