Dịch thuật: Nguồn gốc và sự phát triển của thư tịch

NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THƯ TỊCH

          Thư tịch cổ đại Trung Quốc xuất hiện từ lúc nào, đến nay vẫn chưa xác định chắc chắn thời gian. Tương truyền thời thượng cổ đã có sử quan nắm giữ việc trứ tác. Ba bộ cổ thư hiện đang lưu truyền: Thượng thư 尚书, Thi kinh 诗经, Dịch kinh 易经  nhiều người cho là dựa vào những văn kiện sử thời thượng cổ mà biên định.
          Thư tịch trong thời kì này, thực tế là những hồ sơ do sử quan ghi chép. Lưu truyền đến ngày nay chỉ còn là một bộ phận rất ít. Chất liệu của những thư tịch này chưa phải bằng giấy mà là bằng những thứ khác nhau. Nhìn từ thời đại của những vật thực hiện tồn, đầu tiên là giáp cốt, theo sau đó là đồ đồng, sau nữa là có đá, trúc, gỗ. Do bởi chất liệu khác nhau nên hình thái của thư tịch cũng khác nhau. Phương pháp viết dựa theo chất liệu khác nhau mà cũng có sự khác nhau. Văn tự trên giáp cốt, đồ đồng, đá đều là dùng dao khắc. Sách bằng trúc, gỗ nhìn từ những ghi chép hiện tồn và những vật thực khi khai quật phát hiện, đều viết bằng tay. Còn về văn tự thì phức tạp rối rắm, dị thể khác hình, biến hoá vô cùng. Thời kì này chủ yếu chỉ trước thời Xuân Thu.
          Thư tịch chính thức sớm nhất của Trung Quốc là được làm bằng thẻ trúc hoặc thẻ gỗ. Gọi là thư tịch chính thức chính là chỉ vật trứ tác đem văn tự viết lên hoặc in lên một chất liệu chuyên dụng có hình thái nhất định, mục đích cung cấp cho người đọc. Loại dùng trúc làm thành gọi là “giản sách” 简策, loại dùng gỗ làm thành gọi là “bản độc” 版牍. Một thẻ trúc gọi là “giản” , nhiều giản kết hợp lại gọi là “sách” . Một tấm gỗ gọi là “bản” , tấm gỗ có chữ viết gọi là “độc” . Giản sách chính là hình thức thư tịch sớm nhất của Trung Quốc.
          Thời kì này còn xuất hiện một loại sách với hình thức mới, đó là “bạch thư” 白书. “Bạch” là từ gọi chung những sản phẩm được dệt từ sợi tơ, “bạch thư” chính là sách mà được viết trên những sản phẩm dệt từ sợi tơ. Bạch thư vào thời Xuân Thu tuy đã ứng dụng nhưng không được thông hành lắm, đến thời Chiến quốc mới được dùng phổ biến. Bạch thư được dùng song song với trúc mộc giản, mãi cho đến thời Đông Hán.
          Giản sách được dùng làm chất liệu để viết, khuyết điểm lớn nhất của nó là nặng. Dùng “bạch” thay thế “giản”, tuy có nhiều ưu điểm, nhưng lại đắt, không dễ sử dụng phổ biến. Văn hoá lúc bấy giờ ngày càng phát triển, việc đọc sách, viết sách ngày càng tăng, cần phải có một loại rẻ dễ có dùng để viết, vừa giữ được ưu điểm của “giản sách” và “bạch”, lại tránh được những khuyết điểm của chúng, và giấy đã được phát minh. Việc phát minh ra giấy đã khiến cho thư tịch tiến vào một thời đại mới.
          Sau khi giấy được phát minh từ sợi thực vật, giá giấy rẻ, lại nhẹ, tính năng dễ viết ngày càng được thể hiện, cuối cùng nó đã thay thế giản bạch, trở thành một chất liệu viết duy nhất thông hành. Thời Đông Hán, giản, bạch, giấy được dùng song song, và giản bạch vẫn phổ biến nhất. Từ thời Tam quốc về sau, sách được làm bằng giấy tăng nhiều, đến thời Tấn thì thịnh hành. Sau thời Đông Tấn, giấy hoàn toàn trở thành loại chất liệu chủ yếu thường dùng hàng ngày của thư tịch và thư tín.
          Hình thức viết trên giấy ở thời kì đầu hoàn toàn mô phỏng theo bạch thư. Đem giấy cuộn thành quyển dài, dùng một khúc gỗ làm trục, lấy đó làm trung tâm cuộn thành một bó, gọi là “quyển trục” 卷轴. Nhưng đến giữa thế kỉ thứ 9 (cuối đời Đường), chế độ của quyển trục đã có sự thay đổi lớn, từ quyển trục dần quá độ hướng đến trang.
          Sách cuốn có khi dài đến mấy trượng, khi mở ra cuốn lại đều nhọc công. Nếu muốn kiểm tra một chữ, một câu ở giữa hoặc ở cuối, phải trải ra toàn bộ, rồi sau đó lại cuốn lại, khi kiểm tra sách tham khảo càng bất tiện, mà sách tham khảo lúc bấy giờ đã tương đối nhiều. Nhu cầu kiểm tra câu chữ trong thư tịch cũng nhân sự phát triển của trứ tác mà càng tăng thêm. Vì vậy có người đã đem 1 khổ giấy cứ xếp một mặt sấp một mặt ngửa trở thành một tệp có hình chữ nhật. Trước và sau tệp giấy đó cho thêm bìa cứng để bảo vệ. Đây là một hình thức thư tịch mới xuất hiện, gọi là “kinh chiết trang” 经折装, hoặc “Phạm giáp trang” 梵夹装, đây có thể là ảnh hưởng hình thức “bối diệp kinh” 贝叶经 của Ấn Độ. Sử dụng hình thức này so với quyển trục tiện lợi hơn nhiều. Muốn tra đọc một trang nào không cần phải mở hết toàn quyển.
          Nếu đem những trang sách đơn lẻ kết hợp với loại xếp thành tệp, sẽ là một hình thức thư tịch mới, hình thức đem những trang rời đóng lại thành sách bắt đầu xuất hiện. Khi mọi người nghĩ đến cách này, kĩ thuật in ấn ra đời càng thúc đẩy hình thức này phát triển. Vì vậy, sách vở của Trung Quốc đã tiến vào một thời đại mới, thời đại in ấn.
          Từ thế kỉ thứ 9, thư tịch in ấn của Trung Quốc đã xuất hiện, từ đó, kĩ thuật in ấn đã trở thành phương pháp chủ yếu để làm ra thư tịch, đồng thời từ Trung Quốc truyền ra thế giới.
          Kĩ thuật in ấn là phương pháp đem văn tự chế thành bản in, bên trên bôi một lớp mực rồi in xuống giấy, cũng chính là kĩ thuật dựa vào nguyên cảo văn tự (hoặc hình vẽ) chế thành tác phẩm in ấn. Có 2 loại kĩ thuật in ấn cơ bản: kĩ thuật in khắc bản và kĩ thuật in chữ rời. Khắc bản cũng gọi là kĩ thuật in chỉnh bản, đó là cách đem văn tự khắc ngược lên một tấm gỗ hoặc chất liệu khác, rồi bôi mực lên bản khắc đó. Còn kĩ thuật in chữ rời trước tiên khắc ngược thành từng chữ đơn lẻ, rồi dựa theo tác phẩm đem các chữ đó xếp lại thành một bản hoàn chỉnh, sau đó bôi mực lên. Những chữ đơn lẻ này gọi là “hoạt tự” 活字 (chữ rời). In chữ rời là phương chủ yếu của in ấn hiện đại.
          Địa điểm khắc sách thời kì đầu là ở khắp vùng Tứ Xuyên, Hoài Nam, Giang Nam. Tứ Xuyên dường như trở thành trung tâm khắc sách. Điều không may là những bản khắc thời Đường bảo tồn đến hiện nay còn quá ít. Thời Ngũ đại, không những có kinh điển do nhà nước khắc mà trong giai tầng sĩ đại phu cũng có người bỏ tiền ra để khắc. Đồng thời, nghề khắc sách của dân gian và của tín đồ Phật giáo cũng phát triển. Khắc bản thời Đường, khắc bản thời Ngũ đại lưu truyền đến nay cũng rất ít. Mấy loại tồn tại đều phát hiện tại Đôn Hoàng 敦煌, nhưng đều là khuyết bản.    (còn tiếp)
                                                        
                                                                    Huỳnh Chương Hưng
                                                                    Quy Nhơn 30/9/2013

Nguyên tác Trung văn
THƯ TỊCH ĐÍCH NGUYÊN LƯU
书籍的源流
Trong quyển
CỔ NGOẠN THU TÀNG CHỈ NAM
古玩收藏指南
Biên soạn: Long Tùng 龙松, Kỉ Bình 纪平
Hà Bắc nhân dân xuất bản xã, 1994.
Previous Post Next Post