CÁCH GHI NĂM, THÁNG, NGÀY, GIỜ THỜI CỔ
Trung
Quốc hiện nay dùng công lịch để ghi năm tháng ngày giờ, nhưng vào thời cổ không
dùng công lịch, để ghi năm tháng ngày giờ thì có mấy cách sau.
Về năm
Ghi năm
chủ yếu có 5 cách:
1-Cách ghi theo thứ tự năm lên ngôi của vương công, tức
dùng số năm tại vị của vương công để ghi năm. Ví dụ như:
Huệ Văn Vương thập lục niên, Liêm Pha vi Triệu tướng.
惠文王十六年, 廉颇为赵将
(Năm Huệ Văn Vương thứ 16, Liêm Pha làm Tướng nước Triệu)
2-Dùng niên hiệu. Đế vương thời cổ, từ thời Hán Vũ Đế 汉武帝trở đi bắt đầu có niên hiệu. Như: Kiến Vũ tứ niên 建武四年; Kiến An thập niên 建安十年; Khai Nguyên ngũ niên 开元五年v.v…
3-Dùng can chi. Can chỉ “thiên can” 天干, chi chỉ “địa chi” 地支.
Người xưa lấy Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỉ, Canh, Tân, Nhâm, Quý làm thiên
can; lấy Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi làm địa
chi. Phối hợp thiên can với địa chi thành Giáp Tí, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão …
60 đơn vị, lần lượt theo thứ tự để ghi năm, đây chính là điều mà chúng ta thường
nói “lục thập giáp Tí” 六十甲子 là một vòng. Ví dụ như Mậu Tuất biến pháp 戊戌变法, “Mậu Tuất” là can chi, năm này công nguyên là năm
1898. Và như Tân Hợi cách mạng 辛亥革命. “Tân Hợi” là can
chi, năm này là năm 1911.
4-Dùng niên hiệu, phối cùng can chi. Ví dụ như “Càn
Long Đinh Hợi đông” 乾隆丁亥冬, “Càn Long” là niên hiệu, “Đinh Hợi” là can chi. Càn
Long Đinh Hợi là năm 1767.
5-Dùng địa chi phối hợp cùng 12 con giáp, tức Tí thử, Sửu ngưu, Dần hổ, Mão thố, Thìn long, Tị xà, Ngọ mã, Mùi dương, Thân hầu, Dậu kê, Tuất cẩu, Hợi trư. Cũng có khi chi dùng 12 con giáp, ví dụ như: Thử niên 鼠年, Ngưu niên 牛年v.v…
Về tháng
Ghi
tháng chủ yếu có 3 cách
1-Theo số thứ tự của tháng, tức nhất, nhị, tam cho đến
thập nhị, ví dụ như: bát nguyệt thập ngữ nhật.
2-Dùng địa chi phối hợp với tháng. 12 địa chi Tí, Sửu,
Dần, Mão, Thàn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, vừa khớp một năm có 12
tháng.
Theo âm
lịch (Hạ lịch 夏历 tức lịch nhà Hạ), Dần là tháng Giêng, Mão là tháng
Hai, cứ theo đó mài loại suy. Có người vào ngày tết dán trên cửa câu “Đẩu bính
hồi Dần” 斗柄回寅, ý nghĩa là chuôi sao Bắc đẩu lại chỉ đến vị trí Dần,
biểu thị tháng Giêng đến, bắt đầu năm mới.
3-Dùng Xuân Hạ Thu Đông để ghi tháng. Như Trọng xuân 仲春 (tháng 2 âm lịch), Mạnh đông 孟冬 (tháng 10 âm lịch) …
Về ngày
Ghi
ngày chủ yếu có 4 cách
1-Ghi theo số thứ tự của ngày, như “thập nhất nhật” 十一日. Có lúc tương đối hàm súc, như “tam ngũ chi dạ” 三五之夜 (tức
ngày 15 âm lịch).
2-Dùng can chi, như Giáp Tí, Ất Sửu … cứ 60 ngày là 1
vòng.
3-Phối hợp cùng tháng. Người xưa lấy ngày đầu tiên của
tháng gọi là “sóc” 朔, giữa tháng gọi là “vọng” 望,
sau “vọng” 1 ngày là “kí vọng” 既望. Ngày cuối cùng của
mỗi tháng gọi là “hối” 晦. Như “Thất nguyệt kí
vọng” 七月既望 (tức
ngày 16 tháng 7 âm lịch).
4-Dùng can chi phối hợp với tháng. Nhìn chung can chi ở trước, tháng ở sau, như “Mậu Thân hối” 戊申晦 …… (còn tiếp)
Về giờ
Ghi giờ
chủ yếu có 2 cách.
1-Dùng địa chi, tức lấy 12 địa chi biểu thị ngày đêm
24 tiếng đồng hồ biến hoá. Lấy 23 giờ ngày hôm đó đến 1 giờ ngày hôm sau là giờ
Tí. Từ 1 giờ đến 3 giờ là giờ Sửu, từ 3 giờ đến 5 giờ là giờ Dần, cứ theo đó mà
loại suy. Giờ Tí nửa đêm gọi là “dạ”. Thời cổ lại đem 1 đêm phân làm 5 đoạn, tức
Giáp dạ, Ất dạ, Bính dạ, Đinh dạ, Mậu dạ, xưng là “ngũ cổ” hoặc “ngũ canh”, mỗi
canh là 2 tiếng đồng hồ.
2-Dùng “thiên sắc” 天色.
Người xưa căn cứ vào sự biến hoá của sắc trời (thiên sắc), đem một ngày đêm phân
làm 24 thời thần, tức dạ bán 夜半, kê minh 鸡鳴, bình đán 平旦, nhật xuất 日出, thực thời 食时, ngung trung 隅中, nhật trung 日中, nhật điệt 日昳, bô thời 晡时, nhật nhập 日入, hoàng hôn 黄昏, nhân định 人定. Đối ứng với địa chi, dạ bán tức giờ Tí, kê minh tức
giờ Sửu, bình đán tức giờ Dần, cứ theo đó mà loại suy. Ví dụ như trong bài “Khổng
tước đông nam phi” 孔雀东南飞 có câu:
Yêm yêm hoàng hôn hậu.
Tịch tịch nhân định sơ.
奄奄黄昏后
寂寂人定初
“Hoàng hôn” 黄昏và “nhân định” 人定chỉ giờ Tuất (19 giờ đến 21 giờ) và giờ hợi (21 giờ đến 23 giờ.)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 29/10/2025
Nguồn
CỔ ĐẠI ĐIỂN CHƯƠNG LỄ NGHI BÁCH VẤN
古代典章礼仪百问
Tác giả: Hoa Cường 华强
Thượng Hải: Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 2004.
