Dịch thuật: Địa lí (kì 1)

ĐỊA LÍ
(kì 1)

          Việc phân định khu vực địa phương qua các đời không giống nhau. Có lúc cùng danh xưng một khu vực nhưng hàm nghĩa có sự khu biệt lớn nhỏ. Một số danh xưng thời thượng cổ không có. Nay nêu ra một vài ví dụ để nói rõ.
Châu – Tương truyền thời vua Nghiêu , ông Vũ trị được nạn hồng thuỷ, chia thiên hạ ra làm 9 châu, tức Kí Châu 冀州, Duyện Châu 兖州, Thanh Châu 青州, Từ Châu 徐州, Dương Châu 扬州, Kinh Châu 荆州, Dự Châu 豫州, Lương Châu 梁州, Ung Châu 雍州. Cũng tương truyền, thời vua Thuấn chia làm 12 châu, tức ngoài 9 châu ra, lại từ Kí Châu 冀州chia ra Tịnh Châu 并州, U Châu 幽州; từ Thanh Châu 青州chia ra Doanh Châu 营州. Như vậy, sự lớn nhỏ của cương vực là như nhau, chỉ có điều là sự lớn nhỏ của châu thì bất đồng.
          Đến đời Hán, cương thổ của Trung Quốc càng lớn, thế là tăng thêm 1  Giao Châu 交州, 1 Sóc Phương 朔方. Về sau Sóc Phương nhập vào Tịnh Châu 并州, đổi Ung Châu 雍州 thành Lương Châu 凉州, đổi Lương Châu 梁州 thành Ích Châu 益州. Thời Đông Hán, có tổng cộng 13 châu, tức Tư Lệ 司隶 (trực thuộc châu), Dự Châu豫州, Duyện Châu 兖州, Từ Châu 徐州, Thanh Châu 青州, Lương Châu 凉州, Tịnh Châu 并州, Kí Châu 冀州, U Châu 幽州, Dương Châu 扬州, Ích Châu 益州, Kinh Châu 荆州, Giao Châu 交州. Đầu thời Tấn chia thành 19 châu, so với 13 châu thời Đông Hán, tăng thêm 6 châu:
          - Đem Lương Châu梁州 chia thành 3 châu: Ung , Lương , Tần .
          - Đem Ích Châu益州 chia thành 3 châu: Lương , Ích , Ninh .
          - Đem U Châu幽州 chia thành 2 châu: U , Bình .
          - Đem Giao Châu交州 chia thành 2 châu: Giao , Quảng 广.
          Từ thời Hán đến thời Nam Bắc triều, châu về cơ bản là giám sát khu (1), có lúc cũng là hành chính khu. Nhưng từ thời Nam Bắc triều trở đi, phạm vi của châu dần thu nhỏ lại. Thời Đường, toàn quốc có hơn 300 châu, là hành chính khu. Châu mà thời Tống thời Nguyên gọi, về cơ bản nhất trí với thời Đường. Thời Minh Thanh đổi châu thành phủ, cho nên có các danh xưng như “Duyện Châu phủ” 兖州府, “Dương Châu phủ” 扬州府, chỉ giữ lại số ít châu trực lệ trực thuộc vào tỉnh. Tán Châu lệ thuộc vào phủ.
          Quận  – quận là khu vực hành chính. Tần chia thiên hạ ra làm 36 quận, trong đó mổi tiếng có Lũng Tây 陇西, Dĩnh Xuyên 颍川, Nam Dương 南阳, Hàm Đan 邯郸, Cự Lộc 钜鹿, Ngư Dương 渔阳, Hữu Bắc Bình 右北平, Liêu Tây 辽西, Liêu Đông 辽东, Hà Đông 河东, Thượng Đảng 上党, Thái Nguyên 太原, Đại Quận 代郡, Nhạn Môn 雁门, Vân Trung 云中, Lang Nha 琅琊, Hán Trung 汉中, Ba Quận 巴郡, Thục Quận 蜀郡, Trường Sa 长沙, Kiềm Trung 黔中. Về sau lại tăng thêm Quế Lâm 桂林, Tượng Quận 象郡, Nam Hải 南海, Mân Trung 闽中tổng cộng là 40 quận. Từ đó về sau các đời đều có quận, nhưng khu vực nhỏ lại. Mãi đến thời Đường mới bỏ quận. Thời Đường châu quận lần lượt thay đổi, đều là khu vực hành chính. Thời Tống phế bỏ quận.
          Quốc – quốc là phong vực của chư hầu vương thời Hán, cũng là hành chính khu. Khu vực của quốc cũng gần bằng quận, cho nên thường gọi chung là “quận quốc”.
          Đạo – đạo thời Đường là giám sát khu, cũng tương đương với châu thời Hán. Thời Trinh Quan 贞观chia toàn quốc ra làm 10 đạo:
- Quan Nội đạo 关内道, tức Ung Châu 雍州cổ
          - Hải Nam đạo 海南道, tức 4 châu cổ Dự Duyện Thanh Từ .
          - Hà Đông đạo 河东道, tức Kí Châu 冀州 cổ.
          - Hà Bắc đạo 河北道, tức 2 châu cổ U (2).
          - Sơn Nam đạo 山南道, tức 2 châu cổ Kinh Lương .
          - Lũng Hữu đạo 陇右道, tức 2 châu cổ Ung Lương .
          - Hoài Nam đạo 淮南道, tức Dương Châu 扬州 cổ.
          - Giang Nam đạo 江南道, tức phía nam của Dương Châu 扬州cổ (nay là các tỉnh Triết Giang 浙江, Phúc Kiến 福建, Giang Tây 江西, Hồ Nam 湖南)
          - Kiếm Nam đạo 剑南道, tức Lương Châu 梁州cổ (phía nam Kiếm các 剑阁).
          - Lĩnh Nam đạo 岭南道, tức phía nam Dương Châu 阳州cổ.
          Thời Khai Nguyên 开元, lại chia làm 15 đạo, đó là từ Quan Nội đạo关内道 chia ra 1 Kinh kì 京畿 (quản Trường An 长安), từ Hải Nam đạo 海南道 chia ra 1 Đô Kì 都畿 (quản Lạc Dương 洛阳), lại đem Sơn Nam 山南chia ra làm Sơn Nam đông đạo 山南 东道, Sơn Nam tây đạo 山南西道, đem Giang Nam 江南chia ra làm Giang Nam đông đạo 江南东 , Giang Nam tây đạo 江南西道và Kiềm Trung đạo 黔中道.
          Lộ - lộ thời Tống lúc ban đầu là khu vực phân chia ra để trưng thu thuế khoá và vận chuyển lương thực, về sau dần mang tính chất hành chính khu và quân khu. Ban đầu toàn quốc chia làm 15 lộ, về sau chia làm 18 lộ, 23 lộ (3). Đại để tương đương với tỉnh khu ngày nay. Ví dụ Phúc Kiến lộ 福建路, Quảng Đông lộ 广东路, Quảng Tây lộ 广西路, Hồ Nam lộ 湖南路, Hồ Bắc lộ 湖北路, Thiểm Tây lộ 陕西路, Hà Bắc lộ 河北路 ... đều tương đồng với tên tỉnh của ngày nay, khu vực đại để cũng tương đương (4). Thời Nguyên cũng có lộ, lộ thời Tống lớn, lộ thời Nguyên nhỏ, tương đương với châu phủ. (còn tiếp)

Chú của nguyên tác
1- Để tăng cường tập quyền trung ương, Hán Vũ Đế 汉武帝chia toàn quốc ra làm mười mấy giám sát khu, xưng là châu hoặc bộ. Mỗi châu đặt 1 Thứ sử 刺史 (về sau hoặc xưng là Châu mục 州牧), tuần sát quận quốc sở thuộc. Về sau Thứ sử nắm binh quyền, không chỉ đơn thuần là quan giám sát.
2- Kí Châu tổng cộng xuất hiện 2 lần, biểu thị là một bộ phận của Kí Châu. Phía dưới cũng phỏng theo đó. Những thuyết này căn cứ vào Thông chí 通志quyển 40 Địa chí lược 地理略 của Trịnh Tiều 郑樵.
3- Ngoài ra còn có một số ít lộ đặc biệt vì quân sự  mà thiết lập, không quản dân sự.
4- Quảng Đông lộ广东路còn gọi là Quảng Nam đông lộ广南东路, Quảng Tây lộ广西路còn gọi là Quảng Nam tây lộ广南西路, Hồ Nam lộ湖南路còn gọi là Kinh Hồ nam lộ荆湖南路, Hồ Bắc lộ湖北路còn gọi là Kinh Hồ bắc lộ荆湖北路.

                                                               Huỳnh Chương Hưng
                                                               Quy Nhơn 10/9/2018

Nguồn
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VĂN HOÁ THƯỜNG THỨC
中国古代文化常识
Chủ biên: Vương Lực 王力
Bắc Kinh: Trung Quốc Nhân dân Đại học xuất bản xã, 2012
Previous Post Next Post