Dịch thuật: Truyền thuyết hoa Đỗ Quyên (kì 2)

TRUYỀN THUYẾT HOA ĐỖ QUYÊN
(Kì 2)

Truyền thuyết 2
          Trung Quốc là nước trồng hoa Đỗ Quyên sớm nhất trên thế giới, có thể truy lên đến tận thời Đường. Lúc bấy giờ hoa Đỗ Quyên được gọi là “Sơn Thạch Lựu” 山石榴, “Ánh Sơn Hồng” 映山红, “Hồng Trịch Trục” 红踯躅… Hoa Đỗ Quyên cùng với Báo Xuân hoa 报春花, Long Đảm hoa 龙胆花 hợp xưng là “Trung Quốc tam đại danh hoa”, trong đó Đỗ Quyên xếp vị thứ đầu.
          Tại Trung Quốc có nhiều truyền thuyết liên quan đến hoa Đỗ Quyên, lại thêm qua nhiều đời, các văn nhân mặc khách làm thơ ca ngợi, càng làm cho hoa Đỗ Quyên phủ thêm sắc màu kỳ ảo. Bạch Cư Dị 白居易 đã viết:
Hồi khan Đào Lý đô vô sắc,
Ánh đắc Phù Dung bất thị hoa. (1)
回看桃李都无色
映得芙蓉不是花
(Nhìn lại, thấy hoa Đào hoa Lý dường như không có sắc,
Đỗ Quyên đẹp đến nỗi thấy Phù Dung không còn là hoa)
Đây là những câu thơ ca ngợi cao độ hoa Đỗ Quyên.
          Vậy thì tên gọi Đỗ Quyên từ đâu mà có?
          Truyền thuyết kể rằng: Ngày xưa tại núi Hoàng Hạc 黄鹤 phía nam thành phố Trấn Giang 镇江 thuộc tỉnh Giang Tô 江苏hiện nay có một ngôi làng, trước làng có một dòng sông xinh đẹp chảy thông đến Trường Giang. Dân trong làng sống bằng nghề làm ruộng và săn bắn.
          Có hai gia đình sống ở ven sông. Phía bên Đông là một chàng trai trẻ tên Lưu Hộc 刘鹄, mỗi lần ra khỏi nhà đều mang theo một vật vô cùng đặc biệt, đó là ống tiêu. Khi thổi lên, thu hút không biết bao nhiêu loài chim đủ màu xinh đẹp bay đến lượn vòng. Lưu Hộc thường bắt sâu cho lũ chim ăn; lũ chim cũng thường ngậm đến cho chàng những kỳ hoa dị thảo, chim và Lưu Hộc trở thành bạn thân. Những kỳ hoa dị thảo đều là những loại thảo dược quý giá, Lưu Hộc dùng làm thuốc để trị bệnh cho những người nghèo khổ trong làng.
         Phía bên Tây là hai mẹ con họ Vương sống nương tựa vào nhau, người mẹ đôi mắt bị mù, phải nhờ người con gái kéo sợi dệt vải bán kiếm tiền sống qua ngày. Cô gái tên Quyên Tử 鹃子 rất thông minh lanh lợi lại thêm xinh đẹp, đặc biệt rất khéo tay, vải dệt ra vừa đẹp vừa bền. Quyên Tử tâm tính hiền lành, thường giúp đỡ những người nghèo hơn mình, nàng lại hát hay, tiếng hát uyển chuyển như tiếng hót của chim Bách Linh; chỉ cần cất lên tiếng hát, hoa Đỗ Quyên ở núi Hoàng Hạc đều đua nở, từng đoá từng đoá xinh tươi rực rỡ. Lưu Hộc và Quyên Tử cùng ở ven sông, cùng uống chung dòng nước, hai người thanh mai trúc mã, tâm đầu ý hợp; họ thường một người thổi tiêu một người ca hát, khiến trăm loài chim bay lượn, trăm hoa đua nở.
           Vua nghe được Quyên Tử hát hay, dệt giỏi, lại xinh đẹp, liền ra một đạo thánh chỉ đòi Quyên Tử tiến cung, sai quan huyện dẫn một đội nha dịch đến núi Hoàng Hạc. Khi đến nơi, khắp chốn chim hót hoa thơm, thì ra Lưu Hộc và Quyên Tử đang thổi tiêu ca hát. Quan huyện nói rõ lý do, Quyên Tử không bằng lòng, bọn nha dịch liền xông đến; Lưu Hộc vội chạy đến bảo vệ Quyên Tử. Lúc bấy giờ, một số tên nha dịch, kẻ nắm tay, kẻ nắm chân giữ chặt Lưu Hộc, Lưu Hộc không thể làm gì được. Đáng thương cho Quyên Tử yếu đuối bị những tên nha dịch hung bạo bắt đi, Quyên Tử vừa đi vừa gào lên kêu cứu. Lưu Hộc lòng như lửa đốt, nhưng cũng chỉ biết đứng nhìn.
         Từ khi Quyên Tử bị bắt đi, Lưu Hộc ngày nhớ đêm mong; mẹ Quyên Tử ngày than đêm khóc, đôi măt càng thêm đau nặng. Lưu Hộc nghĩ rằng dù có phải nhảy vào dầu sôi lửa bỏng cũng quyết phải cứu được Quyên Tử. Vì thế, sau khi sắp đặt đâu đó cho mẹ Quyên Tử, một buổi sáng sớm nọ, Lưu Hộc lên đường mang theo cây tiêu yêu quý, trèo qua 81 ngọn núi, vượt qua 81 dòng sông, băng qua 81 khúc quanh, cuối cùng đến được hoàng thành.
          Nói về Quyên Tử, sau khi bị bắt đến hoàng cung, vua vô cùng càn rỡ; nên Quyên Tử rất căm hận,  dù vua nói như thế nào nàng cũng không nghe. Chính vua đã sai người xông vào nhà, chính vua đã chia rẽ nàng với Lưu Hộc, nghĩ đến đó Quyên Tử lửa giận bốc lên liền cầm chiếc ghế con đập vào đầu tên vua vô lại. Do không đề phòng, bị đập đến đổ máu, vua ôm đầu bỏ chạy. Quyên Tử từ đó bỏ ăn bỏ uống, ngày càng gầy ốm chẳng ra hình dạng, dung nhan tiều tuỵ. Vua lúc bấy giờ chẳng hề đoái hoài, bỏ mặc Quyên Tử.
          Lưu Hộc đến trước hoàng thành, không biết Quyên Tử ở đâu, càng không biết nàng sắp chết; khắp nơi chỉ thấy bọn vệ sĩ, chỉ thấy tường cao, không có chút cơ hội nào để tìm. Đang lúc âu lo, đột nhiên tay Lưu Hộc đụng phải chiếc tiêu, Lưu Hộc bèn nghĩ ra một cách, vội làm cánh diều,  gắn vào chiếc tiêu và thả lên không trung. Diều theo gió bay lên, càng bay càng cao, bay đến hoàng cung, tiếng tiêu vang đến chỗ Quyên Tử. Quyên Tử đang lúc hôn trầm vừa nghe được tiếng tiêu quen thuộc liền biết Lưu Hộc đến tìm, nàng liền gượng ngồi dậy, hát lên khúc hát ở quê nhà, khúc hát mà Lưu Hộc thường nghe. Nghe được tiếng hát u buồn, Lưu Hộc vừa vui vừa buồn; vui vì biết Quyên Tử đã biết mình đến tìm; buồn vì Quyên Tử còn bị tường cao ngăn cách, không biết cách nào để cứu; lòng chàng đau như dao cắt.
          Lưu Hộc dựa vào tường than khóc, chẳng thiết gì ăn uống, ngây dại nhìn trời cao, ngày càng kiệt sức, cuối cùng hoá thành một con chim xinh xắn . Chim giương cánh vượt qua tường cao, bay đến chỗ Quyên Tử cất tiếng kêu. Quyên Tử vươn tay đón lấy vuốt ve và nói rằng: “Chim ơi, chim có thể mang ta ra khỏi chốn này”, nói xong liền thổ huyết. Huyết thổ ra biến thành những đoá hoa xinh đẹp, Quyên Tử cũng hoá thành cây Đỗ Quyên, chim ngậm hoa bay ra khỏi hoàng cung, đến núi Hoàng Hạc nhả trước nhà Quyên Tử. Từ đó về sau, nơi đó mọc lên một loài hoa xinh đẹp. Nhưng cây xinh đẹp nhất là cây do Quyên Tử hoá thành, hoa cây này năm cánh, giữa hoa điểm những hạt châu xanh gọi là “ngũ bảo lục châu” 五宝绿珠, đó là loại quý nhất trong loài hoa Đỗ Quyên.
          Nhiều năm sau, nơi đây xây lên một ngôi miếu gọi là Hạc Lâm tự 鹤林寺, trong miếu có một toà đài vô cùng xinh đẹp gọi là Đỗ Quyên đài, trên đài trồng rất nhiều hoa Đỗ Quyên, cây “ngũ bảo lục châu” cũng được dời lên trồng trên đó, trong đám hoa, hoa ngũ bảo lục châu càng nổi bật, xinh tươi kiều diễm. Mỗi lúc sáng sớm hoặc hoàng hôn luôn có một đàn chim bay lượn trên đài hoa, trong đó có một chú chim chỉ quẩn quanh bên cây “ngũ bảo lục châu”, và tiếng kêu của nó nghe u buồn giống như tiếng tiêu vang vọng, mọi người cho đó là Lưu Hộc hoá thành.

CHÚ CỦA NGƯỜI DỊCH
(1)- Theo http://www.xysa.com/quantangshi/t-440.htm, đây là hai câu 5-6 trong bài Sơn Tỳ Bà 山枇杷 được chép trong Toàn Đường thi quyển 440, bài số 43. Toàn bài có 8 câu.

                                                                         Huỳnh Chương Hưng
                                                                         Quy Nhơn 04/7/2013

Trích dịch từ nguyên tác Trung văn
ĐỖ QUYÊN HOA
杜鹃花
Previous Post Next Post